Phân quyền đúng, tăng trưởng mạnh

Phân cấp, phân quyền triệt để không chỉ là một yêu cầu kỹ thuật hành chính. Đó là một cuộc cách mạng về tư duy quản trị, nơi chính quyền địa phương không còn bị xem như "cánh tay nối dài" của cấp trên, mà trở thành những chủ thể có năng lực hành động độc lập, sáng tạo và chịu trách nhiệm rõ ràng trước nhân dân.

Phân quyền đúng, tăng trưởng mạnh- Ảnh 1.

Mô hình bổ trợ là lựa chọn phân quyền duy nhất đáp ứng được cả yêu cầu về hiệu quả quản trị lẫn mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững và bao trùm

Tinh thần ấy đã được Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh dứt khoát: "Phải phân cấp, phân quyền theo hướng: địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm." Đây không chỉ là mệnh lệnh cải cách, mà còn là một định hướng chiến lược nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hệ thống chính trị - hành chính.

Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng đã nhiều lần nhấn mạnh trong các cuộc họp điều hành rằng phải "phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn nữa cho địa phương, bộ ngành không ôm việc, không ôm quyền." Đây là sự đồng thuận cao trong hệ thống lãnh đạo, thể hiện quyết tâm chính trị nhất quán trong việc chuyển giao thẩm quyền thực chất cho địa phương.

Gần nhất, thực hiện chủ trương của Đảng, chiều 14/5, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ về tình hình triển khai thực hiện phân cấp, phân quyền gắn với thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Tại đây, Thủ tướng đã giao các Phó Thủ tướng phụ trách lĩnh vực trực tiếp chỉ đạo, các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ tiếp tục khẩn trương rà soát trong lĩnh vực quản lý để đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hơn nữa cho các địa phương, đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực thực thi của cấp dưới, thiết kế công cụ để tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực.

Chính lúc này – khi Quốc hội đang xem xét tiếp tục sửa đổi Luật Tổ chức chính quyền địa phương – là thời điểm "vàng" để thể chế hóa chủ trương của Đảng, chỉ đạo của Tổng Bí thư..

Tuy nhiên, để phân cấp, phân quyền mạch lạc và hiệu quả, cần xác định rõ một mô hình lý luận làm nền tảng. Có hai mô hình phổ biến trên thế giới: mô hình điều chỉnh (regulatory model) và mô hình bổ trợ (subsidiarity model).

Mô hình điều chỉnh, thường áp dụng trong các quốc gia liên bang như Hoa Kỳ, cho phép cấp dưới có thể có quyền cao hơn cấp trên trong một số lĩnh vực. Điều đó tạo ra sự tự chủ rất lớn, nhưng cũng có thể làm suy yếu tính thống nhất và điều phối trung ương – điều khó phù hợp với đặc điểm của Việt Nam là một quốc gia đơn nhất, có truyền thống hành chính theo trật tự cấp bậc rõ ràng.

Trong khi đó, mô hình bổ trợ lại dung hòa được giữa hiệu lực quản lý nhà nước và tính tự chủ của địa phương. Nguyên lý của bổ trợ là: việc gì cấp dưới làm được thì để cấp dưới làm; cấp trên chỉ can thiệp khi thực sự cần thiết. Trung ương giữ vai trò kiến tạo pháp luật, hoạch định chiến lược, thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu và điều phối chính sách liên vùng, nhưng không làm thay cấp dưới. Đây là mô hình phân quyền có điều kiện, nhưng hiệu quả và bền vững.

Phân quyền đúng, tăng trưởng mạnh- Ảnh 2.

Chúng ta cần một nền quản trị có năng lực phản ứng nhanh, sáng tạo tại chỗ và huy động được mọi nguồn lực trong xã hội

Đặc biệt, mô hình bổ trợ không cực đoan, không phá vỡ trật tự truyền thống có trên – có dưới, mà vẫn đảm bảo được nguyên lý phân công và kiểm soát quyền lực hợp lý. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, bổ trợ là mô hình phù hợp nhất để hiện thực hóa chỉ đạo của Tổng Bí thư và Thủ tướng Chính phủ.

Mô hình bổ trợ không chỉ phù hợp về mặt nguyên lý, mà còn được thực tiễn quốc tế kiểm chứng. Tại Đức – nơi khai sinh nguyên lý này – phân quyền theo hướng bổ trợ đã tạo ra một hệ thống hành chính – chính trị năng động, minh bạch và hiệu quả. Các bang có quyền tự quyết sâu rộng trong giáo dục, y tế, hạ tầng và an sinh xã hội, trong khi chính phủ liên bang chỉ can thiệp khi có vấn đề vượt quá phạm vi hoặc năng lực địa phương. Mỗi bang vì vậy trở thành một "đầu tàu nhỏ", cùng vận hành nền kinh tế lớn thứ tư thế giới một cách ổn định và bền vững.

Điều đặc biệt đáng chú ý là Nhật Bản – dù là nhà nước đơn nhất, hành chính tập trung – vẫn lựa chọn tiếp thu tư tưởng bổ trợ từ Đức sau Thế chiến II. Hiến pháp 1947 và Luật Tự trị địa phương đã xác lập rõ quyền tự trị của các đơn vị chính quyền địa phương. Các tỉnh và thành phố như Tokyo, Osaka hay Yokohama có quyền quyết định phần lớn các vấn đề phát triển đô thị, giáo dục, tài chính và hạ tầng tại chỗ. Mô hình này đã giúp Nhật Bản đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế hơn 8% mỗi năm trong ba thập niên đầu hậu chiến, nhờ khai thác hiệu quả năng lực hành động tại chỗ và sự cạnh tranh chính sách lành mạnh giữa các địa phương.

Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi mô hình đó. Nhất là trong bối cảnh đang tinh gọn bộ máy, bỏ cấp huyện như một cấp chính quyền, tiến tới tổ chức lại hệ thống thành hai cấp: tỉnh và cơ sở. Nếu vận hành theo mô hình bổ trợ, thẩm quyền giữa các cấp sẽ được phân định lại một cách mạch lạc: trung ương giữ vai trò kiến tạo luật pháp và chiến lược; cấp tỉnh điều phối vùng, phân bổ ngân sách, hỗ trợ kỹ thuật; còn cấp cơ sở sẽ thực thi chính sách cụ thể, quản lý đất đai, xây dựng nhỏ, giáo dục, y tế, an sinh – với quyền thực chất và trách nhiệm rõ ràng.

Quan trọng hơn, trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực tìm kiếm động lực tăng trưởng mới, muốn đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế lên mức hai con số trong một giai đoạn nhất định, thì không thể chỉ dựa vào các gói đầu tư công hay cải cách thủ tục đơn lẻ. Chúng ta cần một nền quản trị có năng lực phản ứng nhanh, sáng tạo tại chỗ và huy động được mọi nguồn lực trong xã hội. Mô hình bổ trợ là lựa chọn phân quyền duy nhất đáp ứng được cả yêu cầu về hiệu quả quản trị lẫn mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững và bao trùm.

Để mô hình này vận hành hiệu quả, ba điều kiện tiên quyết cần được bảo đảm. Thứ nhất, khung pháp lý phải rõ ràng, loại bỏ các vùng xám về thẩm quyền và trách nhiệm. Thứ hai, phân quyền phải đi đôi với phân cấp ngân sách, nhân lực và công cụ thực thi. Địa phương không thể "quyết và làm" nếu không có đủ phương tiện. Thứ ba, cần có cơ chế giám sát minh bạch và hệ thống giải trình chặt chẽ. Việc ứng dụng công nghệ số và dữ liệu mở sẽ là công cụ quan trọng để thực hiện điều đó một cách thông minh và hiệu quả.

Tinh thần mà Tổng Bí thư đề ra – "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm" – phải được hiện thực hóa một cách mạnh mẽ và cương quyết, thống nhất, tránh hình thức. Muốn đi đến cùng, chúng ta phải có tư duy chủ đạo, có chủ thuyết dẫn đường, có luật pháp bảo đảm và có quyết tâm chính trị cao độ.

Chúng ta đang có đủ những yếu tố nền tảng nói trên để thực sự chuyển đổi được từ mô hình "xin – cho" sang mô hình "giao – chịu trách nhiệm"; từ bộ máy hành chính thụ động sang nhà nước phục vụ, kiến tạo và gần dân. Đó chính là con đường để Việt Nam xây dựng một hệ thống quản trị hiện đại, hiệu lực và bền vững – đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Xem nhiều nhất

“Giữ hay bỏ xét tuyển đại học bằng học bạ THPT”: Không nên tiếp cận theo cách cực đoan

Tin trong nước 1 ngày trước

Cánh cửa cơ hội hay lo ngại bất công?Xét tuyển đại học bằng học bạ từng được xem là giải pháp mở rộng cơ hội vào đại học, giảm áp lực thi cử cho học sinh. Nhưng thực tế hiện nay, nhiều trường đại học top đầu dần rút khỏi phương thức này, trong khi các trường top dưới vẫn dành phần lớn chỉ tiêu.Tại Hội nghị Giáo dục đại học năm 2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã gửi phiếu khảo sát tới hơn 200 trường đại học, học viện để lấy ý kiến về việc có nên duy trì hình thức xét học bạ trong thời gian tới.Động thái này lập tức tạo ra tranh luận. Nhiều phụ huynh phản ánh tình trạng “chạy điểm”, học thêm để làm đẹp học bạ, khiến phương thức này bị nghi ngờ về tính công bằng. Phụ huynh Đặng Hạnh kể câu chuyện của con gái mình: “Học kỳ I, môn Văn con đạt 9,1; học kỳ II: 8,6 nhưng cả năm lại 7,6. Trong khi nhiều bạn khác học yếu hơn thì toàn trên 8 phẩy. Em chỉ biết động viên con rằng thế hệ sau này có thể không còn xét học bạ nữa. Không có điều kiện học thêm thì các con rõ ràng thiệt thòi”.Năm 2025 có 17 phương thức xét tuyển, trong đó, 42,4% dùng xét học bạ THPT Tại một diễn đàn của phụ huynh, chị N.H chia sẻ: “Họp phụ huynh đầu năm, giáo viên nói luôn là các con đăng ký học thêm ở trung tâm do thầy cô trong trường dạy, thì học bạ sẽ đẹp hơn. Vậy công bằng ở đâu? Nên bỏ càng sớm càng tốt”. Người khác bày tỏ thất vọng: “Lỡ bỏ tiền ra chạy điểm rồi, nếu đến phút 90 lại bỏ học bạ thì phụ huynh khổ nhất”.Ở chiều ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng học bạ vẫn là công cụ đánh giá hợp lý nếu được sử dụng đúng cách. Một phụ huynh phân tích: “Học bạ đi xuyên cả quá trình học, công bằng hay không phụ thuộc vào giáo viên. Nếu giáo viên được luân phiên chấm thì sẽ khách quan hơn. Không nên thi quá nhiều, vừa tốn kém vừa gây áp lực cho học sinh”.Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, năm 2025 có 17 phương thức xét tuyển được các cơ sở giáo dục đại học sử dụng. Trong đó, 42,4% dùng xét học bạ THPT, 39,1% xét điểm thi tốt nghiệp THPT, còn lại là các phương thức khác chiếm 18,5%.Trong mùa tuyển sinh năm nay, việc nhiều trường đại học lớn đã “nói không” với học bạ, cho thấy xu hướng chuyển dịch sang các hình thức có độ tin cậy cao hơn. Hoặc có trường vẫn dùng học bạ nhưng kèm điều kiện bổ sung như: chứng chỉ quốc tế hoặc kỳ thi đánh giá riêng.Giữ hay bỏ: cần đánh giá toàn diện“Đã đến lúc cần nhìn nhận một cách toàn diện: có nên tiếp tục xét tuyển học bạ THPT trong thời gian tới hay không. Việc xét tuyển bằng học bạ đã được áp dụng trong nhiều năm, nhưng cần được đánh giá lại để đảm bảo phù hợp với mục tiêu hiện đại hóa giáo dục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị”. GS Nguyễn Tiến Thảo - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT)Nhiều chuyên gia cho rằng, không nên loại bỏ vội vàng, mà cần cơ chế kiểm soát chặt chẽ để vừa đảm bảo công bằng, vừa giảm áp lực thi cử.Xét học bạ không chỉ Việt Nam áp dụng, mà nhiều nước đã triển khai. Tùy từng ngành, từng trường có thể đặt điều kiện bổ sung để đảm bảo chất lượng.Hiện chưa có đánh giá nào cho thấy sinh viên trúng tuyển theo học bạ yếu hơn các phương thức khác.PGS-TS Bùi Hoài Thắng - Trưởng Phòng Đào tạo Trường ĐH Bách khoa (ĐHQG TPHCM), cho rằng không nên tiếp cận vấn đề “giữ hay bỏ phương thức xét tuyển bằng điểm học bạ THPT” một cách cực đoan trong kỳ tuyển sinh năm 2026. Ông lý giải, phần lớn các trường đại học trên thế giới hiện nay đều tuyển sinh dựa trên quá trình học tập thực tế của học sinh, kết hợp với một số dữ liệu chuẩn hóa như kỳ thi SAT, ACT...Nếu toàn bộ kết quả học tập và nỗ lực của học sinh trong suốt thời gian học phổ thông không được xem xét như một phần thể hiện năng lực học đại học, thì sẽ làm giảm động lực học tập. Hệ quả là học sinh sẽ có xu hướng học lệch và chỉ tập trung vào luyện thi.Theo thầy Vũ Khắc Ngọc - chuyên gia giáo dục, không nên loại bỏ vội vàng. Bởi học bạ phản ánh cả quá trình học tập, không thể nói 5-6 học kỳ kém chính xác hơn một kỳ thi. Việc duy trì xét học bạ giúp giảm áp lực và tạo cơ hội cho những em có quá trình học tập ổn định nhưng không giỏi thi cử. Tuy nhiên, cần kết hợp với ngưỡng đầu vào, tổ hợp môn phù hợp hoặc chứng chỉ bổ sung.Một vị Hiệu trưởng Trường THPT ở Hà Nội cảnh báo, bỏ xét học bạ không chỉ là thu hẹp một phương thức tuyển sinh, mà còn dễ dẫn tới hệ lụy lâu dài. Kỳ thi tốt nghiệp THPT ngày càng khó và phân hóa cao. Nếu chỉ dựa vào một kỳ thi, học sinh trung bình khá sẽ mất cơ hội, buộc phải lao vào ôn luyện căng thẳng, tốn kém. Trong khi đó, xét học bạ giúp giảm áp lực, ghi nhận nỗ lực của học sinh trong suốt ba năm.Ở góc nhìn khác, TS Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam cho rằng, điểm thi tốt nghiệp THPT vẫn đáng tin cậy hơn, bởi đây là phương thức ít bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan. Ở những quốc gia có hệ thống kiểm định chất lượng chặt chẽ và nền nếp học đường nghiêm túc, học bạ có thể trở thành căn cứ tin cậy thay thế kỳ thi. Nhưng với điều kiện hiện nay ở Việt Nam, điểm thi tốt nghiệp vẫn phản ánh trung thực năng lực của học sinh hơn.Ông Khuyến phân tích, tình trạng “xin - cho” điểm vẫn còn khá phổ biến; việc giáo viên nới thêm vài điểm để làm đẹp học bạ cho học sinh không phải chuyện hiếm. Thêm vào đó, sự khác biệt trong cách chấm điểm, đánh giá giữa các địa phương khiến học bạ thiếu tính đồng nhất, chưa đủ cơ sở để làm thước đo năng lực.“Chính vì vậy, nếu dùng học bạ để xét tuyển thì khó bảo đảm công bằng và khách quan. Trong khi đó, kỳ thi tốt nghiệp THPT do Bộ GD&ĐT tổ chức vẫn là một trong những căn cứ đáng tin cậy nhất để các trường đại học, cao đẳng dựa vào khi tuyển sinh”, TS Khuyến nhấn mạnh.Tranh luận về việc giữ hay bỏ xét tuyển học bạ cho thấy yêu cầu cấp thiết là bảo đảm công bằng và minh bạch trong tuyển sinh. Dù lựa chọn thế nào, điều quan trọng hơn cả vẫn là cải tiến chất lượng dạy - học và hệ thống đánh giá, để mọi học sinh đều có cơ hội công bằng bước vào đại học.Theo VOVLink: https://vov.vn/xa-hoi/giu-hay-bo-xet-tuyen-dai-hoc-bang-hoc-ba-thpt-khong-nen-tiep-can-theo-cach-cuc-doan-post1232103.vov