Viên chức được quản lý theo vị trí, đánh giá bằng hiệu quả

Quản lý theo vị trí việc làm, đánh giá bằng kết quả đầu ra, mở rộng quyền tham gia hoạt động ngoài công lập và siết chặt cơ chế sàng lọc là những thay đổi lớn với đội ngũ viên chức.

Luật Viên chức (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại kỳ họp 10 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2026. Luật thay đổi cách thức quản lý viên chức từ mô hình chủ yếu dựa vào ngạch, bậc, thâm niên và tính ổn định của biên chế sang quản lý theo vị trí việc làm, năng lực và kết quả thực hiện nhiệm vụ.

Theo luật mới, viên chức không còn được quản lý chủ yếu theo đầu vào mà được đặt trong một hệ quy chiếu dựa trên giá trị công việc cụ thể. Việc tuyển dụng, bố trí, đánh giá, đào tạo, trả lương và sàng lọc đều gắn với vị trí việc làm và mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Thu nhập và cơ hội nghề nghiệp của viên chức được xác định trực tiếp thông qua kết quả công việc, thay vì phụ thuộc chủ yếu vào thâm niên hay tính ổn định của biên chế.

Các nhóm chính sách lớn trong luật định hướng mở rộng quyền cho viên chức, đồng thời thiết lập các cơ chế ràng buộc trách nhiệm và sàng lọc chặt chẽ hơn trong quá trình sử dụng đội ngũ này.

Quản lý viên chức theo vị trí việc làm

Thay đổi mang tính nền tảng nhất của Luật Viên chức (sửa đổi) là quản lý viên chức trên cơ sở vị trí việc làm trong toàn bộ quá trình sử dụng, từ tuyển dụng, bố trí, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng đến trả lương và chấm dứt hợp đồng. Cách tiếp cận này cho phép Nhà nước quản lý viên chức dựa trên giá trị công việc cụ thể mà mỗi người đảm nhiệm.

Theo quy định mới, mỗi viên chức phải gắn với một vị trí việc làm xác định, có tên gọi, bản mô tả công việc, phạm vi trách nhiệm và khung năng lực rõ ràng. Viên chức được tuyển dụng để làm gì, chịu trách nhiệm đến đâu và phải tạo ra sản phẩm đầu ra như thế nào đều được xác định cụ thể ngay từ đầu.

Điều này kéo theo thay đổi trong cách sử dụng và đánh giá viên chức. Viên chức không còn được đặt trong trạng thái biên chế ổn định theo nghĩa cứng, mà phải đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm trong suốt quá trình công tác. Trường hợp làm việc không đúng vị trí, không đáp ứng yêu cầu chuyên môn hoặc không hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian dài, viên chức có thể bị điều chỉnh vị trí việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng.

Luật sửa đổi đồng thời làm rõ và hoàn thiện chế độ hợp đồng làm việc, bảo đảm thống nhất và tiệm cận hơn với Bộ luật Lao động. Các quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng, chấm dứt hợp đồng do không đáp ứng yêu cầu công việc được cụ thể hóa, làm rõ quyền và nghĩa vụ của cả viên chức và đơn vị sự nghiệp công lập. Hợp đồng làm việc được xác lập trên cơ sở thỏa thuận hai bên và gắn với hiệu quả thực hiện nhiệm vụ.

Viên chức được bảo đảm rõ hơn quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, được pháp luật bảo vệ trong quan hệ lao động và được hưởng các chế độ thôi việc, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định chung. Tuy nhiên luật cho phép đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hợp đồng với viên chức bị xếp loại không hoàn thành nhiệm vụ hoặc không đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm.

Nhân viên hỗ trợ người dân tại Trung tâm phục vụ hành chính công Hà Nội. Ảnh: Tùng Đinh
 

Kết quả công việc là thước đo

Luật mới thiết kế lại toàn bộ cơ chế đánh giá viên chức theo hướng thường xuyên, liên tục, đa chiều và có tiêu chí định lượng, thay cho cách đánh giá chủ yếu mang tính hình thức, nặng cảm tính như trước. Với cơ chế này, đánh giá không còn là bước xếp loại cho đủ thủ tục mà trở thành căn cứ chi phối các quyết định quan trọng như trả lương, thưởng, đào tạo, bổ nhiệm và cả việc chấm dứt hợp đồng.

Viên chức không hoàn thành nhiệm vụ có thể bị bố trí công việc ở trình độ thấp hơn hoặc bị chấm dứt hợp đồng. Điểm thay đổi nằm ở chỗ viên chức phải chứng minh năng lực bằng sản phẩm đầu ra: chất lượng công việc, tiến độ thực hiện, mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và thái độ phục vụ người dân. Nếu không thích ứng, rủi ro không chỉ là mất phần thu nhập tăng thêm mà có thể dẫn tới mất vị trí việc làm.

Cơ chế xếp loại cũng được siết lại bằng quy định khống chế tỷ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, gắn với tỷ lệ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trừ trường hợp có thành tích đặc biệt. Điều này khiến danh hiệu hoàn thành xuất sắc trở thành mức đánh giá "khan" hơn, chỉ dành cho người tạo ra kết quả nổi trội, có đóng góp cụ thể, đo đếm được, thay vì luân phiên hay dựa vào cảm tính.

Song song với đó, kỷ luật được liên thông trực tiếp với kết quả đánh giá chất lượng. Viên chức bị kỷ luật đảng hoặc kỷ luật hành chính trong năm đánh giá sẽ bị xếp loại không hoàn thành nhiệm vụ, trừ trường hợp đặc biệt được luật hóa. Hệ quả là kỷ luật không còn dừng ở xử lý nội bộ, mà kéo theo tác động rõ rệt tới thu nhập, cơ hội nghề nghiệp, thăng tiến và khả năng tiếp tục làm việc.

Cách thiết kế này tạo sức ép thay đổi hành vi làm việc theo hướng thực chất hơn, đồng thời đặt ra yêu cầu viên chức phải tuân thủ kỷ luật công vụ và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp trong suốt quá trình công tác.

"Mở cửa" cho viên chức được làm giàu bằng năng lực, trí tuệ

Một thay đổi khác của Luật Viên chức sửa đổi là cho phép viên chức được góp vốn, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã, bệnh viện, cơ sở giáo dục, tổ chức nghiên cứu khoa học ngoài công lập, với điều kiện không vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, pháp luật chuyên ngành và không phát sinh xung đột lợi ích.

Quy định này xác định viên chức là nguồn lực trí tuệ có thể tham gia vào các hoạt động dịch vụ, khoa học, giáo dục và y tế ngoài khu vực công. Viên chức có thêm cơ hội hợp pháp để gia tăng thu nhập, phát triển nghề nghiệp và phát huy giá trị chuyên môn ngoài đơn vị sự nghiệp công lập. Chính sách này góp phần thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ công, tận dụng tri thức và kinh nghiệm của đội ngũ viên chức, qua đó giảm áp lực cho ngân sách nhà nước.

Quyền được mở rộng đi kèm với yêu cầu ràng buộc chặt chẽ hơn. Viên chức chỉ được tham gia các hoạt động ngoài khu vực công khi không xung đột lợi ích và không ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị công tác. Việc hoàn thành nhiệm vụ tại đơn vị sự nghiệp công lập vẫn là ưu tiên hàng đầu.

Chính phủ sẽ quy định cụ thể các điều kiện thực hiện. Viên chức phải thực hiện theo đúng thẩm quyền, khai báo rõ vai trò, phạm vi tham gia và chứng minh không có xung đột lợi ích với nhiệm vụ công, hướng tới cơ chế minh bạch trong hoạt động nghề nghiệp.

Luật Viên chức sửa đổi cũng thiết lập cơ chế liên thông nguồn nhân lực giữa khu vực công và khu vực tư, cho phép thu hút chuyên gia, nhà khoa học, người có năng lực đặc biệt vào làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ chế này tạo điều kiện để khu vực sự nghiệp tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao.

Với các chính sách mới, môi trường làm việc trong khu vực công trở nên cạnh tranh hơn. Viên chức đang công tác không còn ở vị thế được ưu tiên, mà phải cạnh tranh bằng năng lực thực chất với nguồn nhân lực từ bên ngoài. Điều này đặt ra yêu cầu viên chức phải thường xuyên học tập, cập nhật kỹ năng, nhất là năng lực số, đổi mới sáng tạo và khả năng thích ứng với công nghệ. Trường hợp không đáp ứng yêu cầu, viên chức có thể bị thu hẹp cơ hội thăng tiến hoặc điều chỉnh sang vị trí việc làm thấp hơn.

Theo VNE

Link: https://vnexpress.net/vien-chuc-duoc-quan-ly-theo-vi-tri-danh-gia-bang-hieu-qua-4994776.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

Xem nhiều nhất

81 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Tin trong nước 1 ngày trước

Khối xe Tăng thiết giáp diễu binh trên phố Trần Phú (Hà Nội) trong sự chào đón nồng nhiệt của người dân và du khách trong dịp Đại lễ Quốc khánh 2/9 (Ảnh: Lê Đông/TTXVN). Trải qua 81 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành (1944-2025), Quân đội Nhân dân Việt Nam đã khẳng định vững chắc vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là lực lượng chính trị, quân sự trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.Từ một đội quân ra đời trong điều kiện hết sức gian khó, với lực lượng nhỏ bé, vũ khí thô sơ, Quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, lập nên những chiến công hiển hách, làm nên sức mạnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Quân đội Nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; là Quân đội của dân, do dân và vì dân.Ngay từ Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ngày 22/12/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nguyên lý có ý nghĩa nền tảng: “Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự.”Nguyên lý ấy đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển của Quân đội Nhân dân Việt Nam, bảo đảm cho Quân đội ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, gắn bó máu thịt với Nhân dân.Thực tiễn lịch sử đã chứng minh sức mạnh đặc biệt của một quân đội mang bản chất chính trị cách mạng sâu sắc. Ngay trong những ngày đầu ra quân, với chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, Quân đội ta đã mở đầu truyền thống “đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu.”Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lực lượng vũ trang cách mạng đã trở thành nòng cốt cho toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.Trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, Quân đội Nhân dân Việt Nam không ngừng trưởng thành, phát triển nghệ thuật quân sự từ đánh nhỏ lên đánh lớn, từ du kích lên chính quy, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu,” buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Geneve, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và ý chí kiên cường của một quân đội cách mạng.Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta không chỉ dám đánh, quyết đánh mà còn từng bước làm phá sản các chiến lược chiến tranh của địch.Tiểu đoàn 53, bộ đội tên lửa thể hiện quyết tâm không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác, đập tan mọi âm mưu mới của đế quốc Mỹ (Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN). Thắng lợi trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đặc biệt là chiến thắng trong cuộc tập kích chiến lược đường không của không quân Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đã buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris, tạo tiền đề quyết định cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.Cùng với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội Nhân dân Việt Nam còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả.Trong suốt các cuộc kháng chiến, Quân đội ta đã sát cánh cùng nhân dân Lào và Campuchia chống kẻ thù chung, vì độc lập, tự do của mỗi dân tộc; sau đó tiếp tục làm nghĩa vụ quốc tế, góp phần giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, giúp nhân dân Lào bảo vệ thành quả cách mạng.Những đóng góp đó là biểu hiện sinh động của tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung, thể hiện tầm vóc và trách nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam.Bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước, vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục được khẳng định và mở rộng.Quân đội không chỉ là lực lượng nòng cốt bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là trụ cột quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trước hết là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; ở đó, Quân đội vừa là lực lượng bảo vệ, vừa là lực lượng tham gia phát triển kinh tế-xã hội, củng cố cơ sở chính trị, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.Thực tiễn những năm gần đây tiếp tục khẳng định vai trò và hình ảnh cao đẹp của “Bộ đội cụ Hồ” trong lòng Nhân dân. Từ phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả bão lũ, dịch bệnh đến tham gia xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế-xã hội ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, các cán bộ, chiến sỹ Quân đội luôn có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất. Những hoạt động thiết thực ấy đã làm sâu sắc thêm mối quan hệ “máu thịt” giữa Quân đội và Nhân dân.Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong thực hiện quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, chủ động nhận diện, dự báo, ngăn ngừa và xử lý hiệu quả các nguy cơ, thách thức đối với an ninh quốc gia, không để bị động, bất ngờ.Quân đội đã phát huy vai trò tham mưu chiến lược tin cậy của Đảng, Nhà nước; chủ động hội nhập quốc phòng quốc tế; tham gia tích cực, có trách nhiệm vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh, gọn, mạnh, từng bước hiện đại là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Hiện đại hóa vũ khí, trang bị, tổ chức và phương thức hoạt động là yêu cầu tất yếu, song luôn gắn chặt với xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Sự trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân; bản lĩnh chính trị vững vàng; phẩm chất đạo đức trong sáng chính là nền tảng bảo đảm để Quân đội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.Phát huy truyền thống vẻ vang, Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển đáp ứng yêu cầu mới, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, trụ cột vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.Theo www.vietnamplus.vn