Đại học Việt Nam bứt phá: Tinh gọn hệ thống, hướng tới chuẩn quốc tế

Năm 2025, giáo dục đại học Việt Nam đứng trước cơ hội lịch sử với Nghị quyết 71, khi 140 trường công lập được sắp xếp, tái cấu trúc để tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao chất lượng đào tạo. Đây là bước đi chiến lược xây dựng hệ thống đại học tinh gọn, đa lĩnh vực, đào tạo nhân lực chất lượng cao, tiệm cận quốc tế.

Cơ hội tái cấu trúc để đại học Việt Nam mạnh và tinh gọn

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, Nghị quyết 71 xác định trọng tâm tập trung cho giáo dục đại học, trong đó nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là hiện đại hóa các trường đại học. Mục tiêu là phát triển các cơ sở đại học với tốc độ nhanh, mạnh, định hướng rõ ràng hơn, tạo nguồn nhân lực trình độ cao, đặc biệt trong các lĩnh vực mà đất nước đang cần. Ông Sơn nhận định, giáo dục đại học đang đứng trước cơ hội đặc biệt để giáo dục đại học bứt phá và phát triển.

Theo tư lệnh ngành giáo dục, ngành chuẩn bị bước vào một “cuộc đại sắp xếp” các cơ sở giáo dục đại học. Nghị quyết 71 yêu cầu sắp xếp, tái cấu trúc các trường đại học, sáp nhập hoặc giải thể những trường không đạt chuẩn, xóa bỏ cấp trung gian, nghiên cứu sáp nhập các viện nghiên cứu với trường đại học, đồng thời chuyển một số trường về quản lý địa phương. Trừ các trường khối công an, quân đội và ngoài công lập, khoảng 140 trường công lập rải rác thuộc các bộ, ngành Trung ương và địa phương sẽ được sắp xếp lại.

Học sinh, sinh viên ĐHQGHN tham gia Khóa học mùa Đông về trí tuệ nhân tạo dành cho sinh viên quốc tế năm 2025 tại Đại học Quảng Tây, Trung Quốc (Ảnh: NTCC)
 

Các trường “gần nhau” về lĩnh vực sẽ được sắp xếp nhằm khắc phục tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, không phát triển được. “Tinh thần là giảm rất nhiều đầu mối và tập trung để các trường mạnh lên, tốt hơn, chứ không phải chỉ để giảm đầu mối cho xong”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Trên thực tế, hiệu quả của việc sắp xếp, tinh gọn và tập trung nguồn lực đã được kiểm chứng qua những mô hình đại học quy mô lớn. Cuối năm 2024, Đại học Quốc gia TP.HCM và Đại học Quốc gia Hà Nội đã triển khai việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng quyền tự chủ, qua đó ghi nhận những kết quả tích cực ban đầu. Lãnh đạo hai đại học quốc gia khẳng định, chính mô hình đại học đa ngành, quy mô lớn đã giúp các đơn vị chuyển mình từ những cơ sở rời rạc thành những trung tâm đào tạo – nghiên cứu có uy tín quốc tế, sở hữu nhiều chương trình đạt chuẩn và năng lực nghiên cứu mạnh. Việc tinh gọn tổ chức lần này nhằm tập trung tối đa nguồn lực, từ con người đến hạ tầng, đồng thời mở rộng cơ hội được Nhà nước đầu tư để tiếp tục vươn tầm.

Thực tế, mô hình này đã phát huy hiệu quả từ rất sớm. Đại học Quốc gia TP.HCM được thành lập năm 1995 trên cơ sở sáp nhập nhiều cơ sở giáo dục đại học, với 9 đơn vị thành viên ban đầu, trở thành minh chứng rõ nét cho hiệu quả của việc “gom để lớn”. Đây cũng là mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực, hình thành nên hệ thống đại học công lập lớn nhất khu vực phía Nam.

Giám đốc ĐHQGHN Hoàng Minh Sơn giới thiệu với Tổng Bí thư Tô Lâm các sản phẩm khoa học – công nghệ mũi nhọn của trường
 

Tương tự, tại phía Bắc, quá trình tổ chức lại để hình thành Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đánh dấu bước chuyển quan trọng, đưa các cơ sở đào tạo đơn ngành rời rạc hợp nhất thành một đại học tổng hợp, tinh gọn, tự chủ và từng bước tiệm cận các chuẩn mực quốc tế.

Thực tế, các đại học lớn trên thế giới đều đi qua con đường sáp nhập, hợp nhất để tăng sức cạnh tranh và khai thác tối đa nguồn lực. Trung Quốc trong giai đoạn 1996–2001 đã sáp nhập gần 400 cơ sở, giảm còn 164 cơ sở đỉnh điểm, đến năm 2003 còn 79 cơ sở, tối ưu hóa nguồn lực, thúc đẩy nghiên cứu liên ngành và nâng tầm quốc tế. Hàn Quốc giảm 40% số trường công trong 10 năm, hơn 60 trường nhỏ được sáp nhập thành các đại học cộng đồng, nâng chất lượng đào tạo và giảm trùng ngành…

Như vậy, nhiều cơ sở trong và ngoài nước đã chứng minh rằng sắp xếp hợp lý là con đường phát triển bền vững. Tuy nhiên, các bài học thất bại quốc tế cũng cảnh báo: nếu không xử lý tốt xung đột văn hóa và quản trị, quá trình sáp nhập dễ tạo ra những “đại học trên danh nghĩa” - quy mô lớn nhưng thiếu sức cạnh tranh.

TS Lê Viết Khuyến, Phó Chủ tịch Hiệp hội các trường Đại học, cao đẳng Việt Nam, Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học khẳng định: Việc sắp xếp, sáp nhập đại học là chủ trương đúng và trúng trong bối cảnh hiện nay. Việt Nam có hàng trăm cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng, song phần lớn có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, chất lượng đào tạo và nghiên cứu chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Nhiều trường được nâng cấp từ cao đẳng nhưng thiếu nền tảng quản trị hiện đại, chồng chéo về chức năng, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và lãng phí nguồn lực. Hệ quả là khó hình thành những “đầu tàu” đại học vững mạnh, đồng thời lãng phí ngân sách, cơ sở vật chất và cơ hội hợp tác quốc tế.

Nhiều chuyên gia giáo dục cũng cho rằng, sáp nhập đi đôi với thiết lập cơ chế quản trị mới, bảo đảm lợi ích chung sẽ giúp Đại học Việt Nam thoát khỏi tình trạng phân tán, manh mún, tiến gần hơn tới chuẩn mực quốc tế, đồng thời tối ưu nguồn lực, thương hiệu và chất lượng đào tạo.

Xây đại học quốc gia “đầu tàu”: Giải pháp then chốt

Hiện Bộ GD&ĐT đang hoàn thiện phương án sắp xếp hệ thống đại học công lập trình Chính phủ phê duyệt với lộ trình ba giai đoạn. Cụ thể, giai đoạn 2025 - 2027 sẽ thí điểm sáp nhập tại một số địa phương có điều kiện như Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ; giai đoạn 2028 - 2030 nhân rộng mô hình các đại học hùng mạnh, đóng vai trò dẫn dắt đào tạo, nghiên cứu và công nghệ; sau năm 2030, hệ thống đại học công lập sẽ được hoàn thiện, đưa tổng số trường về khoảng 100, bảo đảm tránh sáp nhập cơ học, giảm đầu mối nhưng không nâng cao chất lượng.

"Nghị quyết 71 xác định trọng tâm là hiện đại hóa các trường đại học, phát triển hệ thống giáo dục đại học nhanh, mạnh, có định hướng rõ ràng để tạo nguồn nhân lực trình độ cao. Giáo dục đại học đang đứng trước cơ hội bứt phá và chuẩn bị bước vào một “cuộc đại sắp xếp", Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn.

Đề án sắp xếp xác định nguyên tắc, tiêu chí, triển khai công khai, minh bạch, bảo đảm quyền lợi người học, tạo điều kiện phát huy sáng tạo và tham gia các chương trình quốc tế, hướng tới hệ thống đại học công lập tinh gọn, mạnh hơn, tiến gần hơn tới chuẩn mực quốc tế.

Nghị quyết 71 đặt trọng tâm hiện đại hóa các trường đại học, phát triển hệ thống giáo dục đại học nhanh, mạnh, định hướng rõ ràng, nhằm đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao
 

Phân tích về định hướng này, GS, TS Hoàng Văn Cường, Phó Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước, đại biểu Quốc hội khóa XV cho rằng, việc sáp nhập các trường đại học phải xuất phát từ nhu cầu phát triển thực chất và bền vững, tuân thủ các nguyên tắc lợi ích công, tôn trọng tự chủ, minh bạch và trách nhiệm giải trình, đồng thời được thực hiện theo lộ trình phù hợp. Theo ông, sáp nhập chỉ hiệu quả khi đáp ứng ba yếu tố then chốt: xác định rõ thế mạnh và điểm yếu của từng trường; thiết lập cơ chế quản lý phù hợp; và bảo đảm quá trình hòa nhập văn hóa, lợi ích chung. Chỉ khi hội đủ các điều kiện này, việc gom các trường nhỏ, yếu vào trường lớn mới tạo ra đột phá về chất lượng và năng lực cạnh tranh. Đây cũng là điều kiện để tối ưu hóa nguồn lực, từ cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, sinh viên đến hoạt động nghiên cứu và hạ tầng, qua đó xây dựng các thương hiệu quốc gia trong giáo dục đại học có khả năng cạnh tranh quốc tế.

Cùng quan điểm, TS Lê Viết Khuyến cho rằng mục tiêu của sáp nhập không phải là cắt giảm số lượng cho “đẹp sổ sách” mà là cơ hội nâng tầm các cơ sở giáo dục đại học, hình thành những trung tâm đại học mạnh, tinh gọn, đủ năng lực đào tạo nhân lực chất lượng cao và phát triển nghiên cứu liên ngành. Theo ông, Việt Nam chỉ có thể tiến lên khi hệ thống có ít trường hơn nhưng mỗi trường đều mạnh. Thực tiễn cho thấy, các mô hình đại học quốc gia và đại học vùng trước đây đã chứng minh hiệu quả rõ rệt: những đơn vị được hợp nhất và tổ chức theo mô hình đại học đa lĩnh vực thường phát triển nhanh và bền vững hơn.

ĐH Quốc gia Hà Nội và Học viện Kinh tế Quốc dân và Hành chính công Quốc gia Liên bang Nga hợp tác đào tạo, nghiên cứu và nâng cao năng lực quản trị địa phương (Ảnh: NTCC)
 

Từ đó, GS Hoàng Văn Cường đề xuất sắp xếp lại hệ thống theo mô hình “tập đoàn giáo dục”. Theo mô hình này, các trường địa phương đóng vai trò nền tảng đào tạo đại trà, trong khi các trường trung ương tập trung đội ngũ giảng viên giỏi, sinh viên tinh hoa và nghiên cứu tầm quốc tế. Cách tổ chức này giúp tiết kiệm và tập trung nguồn lực, tránh tình trạng “lớn mà loãng, đông mà yếu”, đồng thời bảo đảm quyền lợi của giảng viên, sinh viên và sự phát triển bền vững của toàn hệ thống.

Giải pháp sáp nhập theo mô hình tập đoàn, trong đó trường địa phương đào tạo theo chuẩn và chịu sự giám sát của trường trung ương, còn trường trung ương quy tụ nhân lực và nghiên cứu đỉnh cao sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, uy tín quốc gia, đồng thời tương đồng với cách vận hành của các hệ thống đại học danh tiếng trên thế giới như Đại học California hay Đại học Quốc gia Singapore.

Có thể khẳng định, việc sắp xếp, hợp nhất các trường đại học công lập theo Nghị quyết 71 là bước đi quyết liệt để khắc phục tình trạng manh mún, trùng lắp. Khi thực hiện bài bản với quản trị minh bạch và cơ chế rõ ràng, các trường sẽ phát huy tối đa nguồn lực, hình thành những đại học mạnh, tinh gọn, đủ năng lực dẫn dắt đào tạo và nghiên cứu quốc tế. Đây chính là nền tảng để giáo dục đại học Việt Nam vươn lên, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu.

Theo VOV

Link: https://vov.vn/xa-hoi/dai-hoc-viet-nam-but-pha-tinh-gon-he-thong-huong-toi-chuan-quoc-te-post1254765.vov

Xem nhiều nhất

81 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Tin trong nước 1 ngày trước

Khối xe Tăng thiết giáp diễu binh trên phố Trần Phú (Hà Nội) trong sự chào đón nồng nhiệt của người dân và du khách trong dịp Đại lễ Quốc khánh 2/9 (Ảnh: Lê Đông/TTXVN). Trải qua 81 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành (1944-2025), Quân đội Nhân dân Việt Nam đã khẳng định vững chắc vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là lực lượng chính trị, quân sự trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.Từ một đội quân ra đời trong điều kiện hết sức gian khó, với lực lượng nhỏ bé, vũ khí thô sơ, Quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, lập nên những chiến công hiển hách, làm nên sức mạnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Quân đội Nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; là Quân đội của dân, do dân và vì dân.Ngay từ Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ngày 22/12/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nguyên lý có ý nghĩa nền tảng: “Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự.”Nguyên lý ấy đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển của Quân đội Nhân dân Việt Nam, bảo đảm cho Quân đội ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, gắn bó máu thịt với Nhân dân.Thực tiễn lịch sử đã chứng minh sức mạnh đặc biệt của một quân đội mang bản chất chính trị cách mạng sâu sắc. Ngay trong những ngày đầu ra quân, với chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, Quân đội ta đã mở đầu truyền thống “đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu.”Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lực lượng vũ trang cách mạng đã trở thành nòng cốt cho toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.Trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, Quân đội Nhân dân Việt Nam không ngừng trưởng thành, phát triển nghệ thuật quân sự từ đánh nhỏ lên đánh lớn, từ du kích lên chính quy, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu,” buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Geneve, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và ý chí kiên cường của một quân đội cách mạng.Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta không chỉ dám đánh, quyết đánh mà còn từng bước làm phá sản các chiến lược chiến tranh của địch.Tiểu đoàn 53, bộ đội tên lửa thể hiện quyết tâm không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác, đập tan mọi âm mưu mới của đế quốc Mỹ (Ảnh: Vũ Tạo/TTXVN). Thắng lợi trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đặc biệt là chiến thắng trong cuộc tập kích chiến lược đường không của không quân Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đã buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris, tạo tiền đề quyết định cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.Cùng với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội Nhân dân Việt Nam còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả.Trong suốt các cuộc kháng chiến, Quân đội ta đã sát cánh cùng nhân dân Lào và Campuchia chống kẻ thù chung, vì độc lập, tự do của mỗi dân tộc; sau đó tiếp tục làm nghĩa vụ quốc tế, góp phần giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, giúp nhân dân Lào bảo vệ thành quả cách mạng.Những đóng góp đó là biểu hiện sinh động của tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung, thể hiện tầm vóc và trách nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam.Bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước, vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục được khẳng định và mở rộng.Quân đội không chỉ là lực lượng nòng cốt bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là trụ cột quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trước hết là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; ở đó, Quân đội vừa là lực lượng bảo vệ, vừa là lực lượng tham gia phát triển kinh tế-xã hội, củng cố cơ sở chính trị, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.Thực tiễn những năm gần đây tiếp tục khẳng định vai trò và hình ảnh cao đẹp của “Bộ đội cụ Hồ” trong lòng Nhân dân. Từ phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả bão lũ, dịch bệnh đến tham gia xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế-xã hội ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, các cán bộ, chiến sỹ Quân đội luôn có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất. Những hoạt động thiết thực ấy đã làm sâu sắc thêm mối quan hệ “máu thịt” giữa Quân đội và Nhân dân.Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong thực hiện quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, chủ động nhận diện, dự báo, ngăn ngừa và xử lý hiệu quả các nguy cơ, thách thức đối với an ninh quốc gia, không để bị động, bất ngờ.Quân đội đã phát huy vai trò tham mưu chiến lược tin cậy của Đảng, Nhà nước; chủ động hội nhập quốc phòng quốc tế; tham gia tích cực, có trách nhiệm vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh, gọn, mạnh, từng bước hiện đại là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Hiện đại hóa vũ khí, trang bị, tổ chức và phương thức hoạt động là yêu cầu tất yếu, song luôn gắn chặt với xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Sự trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân; bản lĩnh chính trị vững vàng; phẩm chất đạo đức trong sáng chính là nền tảng bảo đảm để Quân đội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.Phát huy truyền thống vẻ vang, Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển đáp ứng yêu cầu mới, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, trụ cột vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.Theo www.vietnamplus.vn