Hà Tĩnh tăng cường công tác phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm hại, bạo lực, bạo hành trẻ em

Thời gian qua, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra một số vụ việc xâm hại, bạo lực trẻ em gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển toàn diện của trẻ em. Nhằm bảo đảm quyền trẻ em, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong công tác này, UBND tỉnh yêu cầu triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, phát hiện, can thiệp, hỗ trợ và xử lý hành vi xâm hại, bạo hành trẻ em. Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số 111)Tăng cường tuyên truyền, xử lý nghiêm các hành vi vi phạmUBND tỉnh yêu cầu các cấp, các ngành, địa phương tiếp tục thực hiện nghiêm các chỉ thị, kế hoạch của Trung ương và của tỉnh về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; đồng thời đẩy mạnh đổi mới hình thức tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong cộng đồng về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.Các cơ quan, đơn vị, địa phương cần tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người dân, các cấp, các ngành trong việc phát hiện, báo cáo và xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm quyền trẻ em; hướng dẫn cha, mẹ, người trực tiếp chăm sóc trẻ em về kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, phòng, chống xâm hại trẻ em; giáo dục kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ, tự phòng ngừa xâm hại cho trẻ em. Tiếp tục quảng bá Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số 111), Tổng đài tiếp nhận, kết nối thông tin trợ giúp đối tượng (số 1800577756), khuyến khích việc phát hiện sớm, lên tiếng, thông báo, tố cáo các hành vi xâm hại trẻ em.UBND tỉnh yêu cầu xử lý nghiêm các vụ việc xâm hại trẻ em, đặc biệt đối với những cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi che giấu, không tố giác hoặc thiếu trách nhiệm trong việc xử lý vụ việc. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra các vụ bạo lực, xâm hại trẻ em mà không kịp thời phát hiện, xử lý. Trên cơ sở chỉ đạo của các cơ quan cấp trên, nghiên cứu, xem xét việc ứng dụng công nghệ thông tin, cập nhật, quản lý cơ sở dữ liệu về trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em có nguy cơ bị xâm hại.Phân công rõ trách nhiệm từng ngành, từng cấp1. Sở Y tế - Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, đoàn thể, đơn vị liên quan thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch về bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đặc biệt là việc thực hiện công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.- Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về bảo vệ trẻ em tại các địa phương, tổng hợp tình hình, báo cáo định kỳ hoặc đột xuất khi có vụ việc nghiêm trọng.- Duy trì đường dây nóng, kịp thời tiếp nhận và xử lý thông tin, phối hợp với công an, chính quyền địa phương can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo hành.- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan triển khai các biện pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. Tập huấn, truyền thông trang bị kiến thức, kỹ năng cho các bậc cha mẹ, người chăm sóc trẻ em và bản thân trẻ em về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.- Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở khám, chữa bệnh ưu tiên khám, chữa bệnh cho trẻ em là nạn nhân của các vụ bạo lực, xâm hại; báo cáo kịp thời các trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại tình dục. Nâng cao năng lực cho nhân viên y tế 3 và các cơ sở y tế trong việc phát hiện, chẩn đoán, chăm sóc y tế và giám định cho trẻ em bị bạo lực, xâm hại. 2. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Tăng cường công tác quản lý nhà nước về gia đình; chỉ đạo, hướng dẫn công tác gia đình tăng cường các biện pháp phòng, chống tình trạng cha mẹ, người thân xâm hại sức khỏe, tinh thần, nhân phẩm của trẻ em; trang bị kiến thức, kỹ năng thực hiện trách nhiệm của gia đình, của cha mẹ đối với việc phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. - Chỉ đạo các cơ quan báo chí, truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về trách nhiệm bảo vệ trẻ em, hậu quả của hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em.- Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hóa, giải trí, môi trường mạng, kịp thời ngăn chặn, xử lý các sản phẩm, ấn phẩm, nội dung có yếu tố bạo lực, xâm hại hoặc không phù hợp với trẻ em.- Phối hợp với cơ quan chuyên môn xây dựng chuyên mục, chuyên đề truyền thông về phòng, chống bạo lực gia đình, xâm hại trẻ em; tăng cường tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống, cách ứng xử với trẻ em trong gia đình, trách nhiệm nêu gương của người lớn; giáo dục trẻ em giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.3. Sở Giáo dục và Đào tạo- Tăng cường kiểm soát, phòng ngừa bạo lực học đường; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, không báo cáo hoặc bao che hành vi bạo lực, xâm hại trong trường học; phối hợp tư vấn tâm lý học đường và thiết lập đường dây nóng trong trường học để phát hiện sớm vụ việc bạo hành học sinh.- Chỉ đạo và hướng dẫn các cơ sở giáo dục triển khai, thực hiện các phương pháp giáo dục tích cực, đồng thời tăng cường công tác nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực chuyên môn, phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên; thường xuyên trao đổi thông tin liên quan đến các trường hợp học sinh có dấu hiệu bị bạo hành, bạo lực học đường, bị xâm hại với cơ quan Công an để phối hợp theo dõi, xử lý.- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ cho học sinh trong việc phòng, chống bạo lực và xâm hại trẻ em. Triển khai hiệu quả cơ chế phối hợp giữa nhà trường, gia đình và chính quyền địa phương trong việc phát hiện sớm, hỗ trợ, can thiệp kịp thời các trường hợp học sinh có dấu hiệu bị bạo lực, bạo hành, xâm hại.- Thường xuyên tổ chức công tác kiểm tra việc thực hiện các quyền của trẻ em trong các cơ sở giáo dục; kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ trẻ em, công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em trong nhà trường. 4. Công an tỉnh- Chủ động nắm bắt tình hình, thường xuyên triển khai đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh phòng, chống hành vi bạo lực, xâm hại 4 trẻ em trên địa bàn. Tổ chức điều tra, xử lý nghiêm minh các đối tượng có hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em theo đúng quy định của pháp luật. - Phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan nâng cao hiệu quả công tác phòng, ngừa, phát hiện và xử lý các hành vị bạo lực, xâm hại trẻ em; rà soát, xử lý dứt điểm các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em còn tồn đọng; kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi bao che, chậm trễ, không thông báo, tố giác hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em hoặc thiếu trách nhiệm trong việc xử lý các vụ việc bạo lực, xâm hại trẻ em; bảo vệ danh tính, hình ảnh của trẻ em trong quá trình điều tra. - Chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương thực hiện kịp thời, hiệu quả việc tiếp nhận các tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố liên quan đến hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em; phối hơp chặt chẽ với các cơ sở y tế, cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn để kịp thời trao đổi thông tin vụ việc có dấu hiệu nghi vấn liên quan đến bạo lực, xâm hại trẻ em.5. Ủy ban nhân dân các xã, phường- Tăng cường chỉ đạo, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, kỹ năng về bảo vệ trẻ em, phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em cho cán bộ làm công tác trẻ em, cha mẹ, người chăm sóc trẻ em và cho chính bản thân trẻ em.- Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương triển khai đồng bộ các biện pháp bảo vệ trẻ em theo ba cấp độ (Phòng ngừa - Hỗ trợ - Can thiệp); ưu tiên bố trí nguồn lực để bảo đảm việc can thiệp, hỗ trợ cho trẻ em khi bị bạo lực, xâm hại.- Chỉ đạo, giao trách nhiệm cho tổ chức phối hợp liên ngành về bảo vệ trẻ em, nhất là ban bảo vệ trẻ em, nhóm thường trực bảo vệ trẻ em cấp xã triển khai việc rà soát, thống kê, nắm bắt tình hình về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt; kịp thời phát hiện các trường hợp trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, xâm hại, nhất là trẻ em sống trong gia đình có cha mẹ ly hôn, ly thân, cha mẹ đi làm ăn xa hoặc có người liên quan đến tệ nạn xã hội.- Bố trí nguồn lực bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em. Xây dựng các điểm vui chơi, giải trí dành cho trẻ em. Nhân rộng, phát triển các mô hình cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em tại cộng đồng.- Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em tại địa phương. Giải quyết kịp thời, nghiêm minh các vụ việc bạo lực, xâm hại ở địa phương. Chịu trách nhiệm về việc để xảy ra các hành vi vi phạm quyền trẻ em thuộc địa bàn quản lý. 6. Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các tổ chức thành viên: Tăng cường tuyên truyền, vận động, phổ biến, giáo dục, giám sát, phản biện việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em tại địa bàn dân cư; kiến nghị với các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em. 7. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh: phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ xâm hại trẻ em. Đồng thời xử lý nghiêm minh các vụ án, vụ việc có liên quan đến hành vi xâm hại trẻ em theo quy định pháp luật để răn đe, giáo dục, phòng ngừa. Yêu cầu các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân các xã, phường theo chức năng, nhiệm vụ chủ động triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, hiệu quả các nội dung trên.Giao Sở Y tế chủ trì hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, tổng hợp tình hình, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh định kỳ và kịp thời báo cáo, tham mưu xử lý các vụ việc đột xuất, nghiêm trọng.Với sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, ngành và toàn xã hội, Hà Tĩnh quyết tâm xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh, thân thiện để mọi trẻ em đều được bảo vệ, chăm sóc và phát triển toàn diện. 

Tăng lương tối thiểu vùng từ 1/1/2026

Mức lương tối thiểu tăng từ 250.000 đồng - 350.000 đồng/thángTheo Nghị định 293/2025/NĐ-CP, mức lương tối thiểu tháng tại 4 vùng được quy định như sau: Vùng I: tăng 350.000 đồng, từ 4.960.000 đồng/tháng lên 5.310.000 đồng/tháng; Vùng II: tăng 320.000 đồng, từ 4.410.000 đồng/tháng lên 4.730.000 đồng/tháng; Vùng III: tăng 280.000 đồng từ 3.860 đồng/tháng lên 4.140.000 đồng/tháng; Vùng IV: tăng 250.000 đồng từ 3.450.000 đồng/tháng lên 3.700.000 đồng/tháng.Mức lương tối thiểu theo giờ tại vùng I tăng từ 23.800 đồng/giờ lên 25.500 đồng/giờ, vùng II từ 21.200 đồng/giờ lên 22.700 đồng/giờ, vùng III từ 18.600 đồng/giờ lên 20.000 đồng/giờ, vùng IV từ 16.600 đồng/giờ lên 17.800 đồng/giờ.Như vậy, mức lương tối thiểu nêu trên tăng từ 250.000 đồng - 350.000 đồng/tháng (tương ứng tỷ lệ bình quân 7,2%) so với mức lương tối thiểu hiện hành quy định tại Nghị định 74/2024/NĐ-CP. Danh mục địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu từ ngày 1/1/2026Việc áp dụng địa bàn vùng được xác định theo nơi hoạt động của người sử dụng lao động như sau:Người sử dụng lao động hoạt động trên địa bàn thuộc vùng nào thì áp dụng mức lương tối thiểu quy định đối với địa bàn đó.Người sử dụng lao động có đơn vị, chi nhánh hoạt động trên các địa bàn có mức lương tối thiểu khác nhau thì đơn vị, chi nhánh hoạt động ở địa bàn nào, áp dụng mức lương tối thiểu quy định đối với địa bàn đó.Người sử dụng lao động hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung nằm trên các địa bàn có mức lương tối thiểu khác nhau thì áp dụng theo địa bàn có mức lương tối thiểu cao nhất.Người sử dụng lao động hoạt động trên địa bàn có sự thay đổi tên hoặc chia thì tạm thời áp dụng mức lương tối thiểu quy định đối với địa bàn trước khi thay đổi tên hoặc chia cho đến khi Chính phủ có quy định mới.Người sử dụng lao động hoạt động trên địa bàn được thành lập mới từ một địa bàn hoặc nhiều địa bàn có mức lương tối thiểu khác nhau thì áp dụng mức lương tối thiểu theo địa bàn có mức lương tối thiểu cao nhất cho đến khi Chính phủ có quy định mới.Áp dụng mức lương tối thiểuNghị định nêu rõ mức lương tối thiểu tháng là mức lương thấp nhất làm cơ sở để thỏa thuận và trả lương đối với người lao động áp dụng hình thức trả lương theo tháng, bảo đảm mức lương theo công việc hoặc chức danh của người lao động làm việc đủ thời giờ làm việc bình thường trong tháng và hoàn thành định mức lao động hoặc công việc đã thỏa thuận không được thấp hơn mức lương tối thiểu tháng.Mức lương tối thiểu giờ là mức lương thấp nhất làm cơ sở để thỏa thuận và trả lương đối với người lao động áp dụng hình thức trả lương theo giờ, bảo đảm mức lương theo công việc hoặc chức danh của người lao động làm việc trong một giờ và hoàn thành định mức lao động hoặc công việc đã thỏa thuận không được thấp hơn mức lương tối thiểu giờ.Đối với người lao động áp dụng hình thức trả lương theo tuần hoặc theo ngày hoặc theo sản phẩm hoặc lương khoán thì mức lương của các hình thức trả lương này nếu quy đổi theo tháng hoặc theo giờ không được thấp hơn mức lương tối thiểu tháng hoặc mức lương tối thiểu giờ. Mức lương quy đổi theo tháng hoặc theo giờ trên cơ sở thời giờ làm việc bình thường do người sử dụng lao động lựa chọn theo quy định của pháp luật lao động như sau:- Mức lương quy đổi theo tháng bằng mức lương theo tuần nhân với 52 tuần chia cho 12 tháng; hoặc mức lương theo ngày nhân với số ngày làm việc bình thường trong tháng; hoặc mức lương theo sản phẩm, lương khoán thực hiện trong thời giờ làm việc bình thường trong tháng.- Mức lương quy đổi theo giờ bằng mức lương theo tuần, theo ngày chia cho số giờ làm việc bình thường trong tuần, trong ngày; hoặc mức lương theo sản phẩm, lương khoán chia cho số giờ làm việc trong thời giờ làm việc bình thường để sản xuất sản phẩm, thực hiện nhiệm vụ khoán.Theo VOVLink: https://vov.vn/xa-hoi/tang-luong-toi-thieu-vung-tu-112026-post1244945.vov

Công khai tiến độ của tỉnh hà tĩnh

Campuchia lên tiếng về việc Thái Lan đình chỉ thỏa thuận hòa bình

Bộ Ngoại giao Campuchia tối 10/11 cho biết thỏa thuận hòa bình với Thái Lan, được Thủ tướng hai nước ký kết, có sự chứng kiến của Tổng thống Mỹ Donald Trump và Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim, là bước tiến lớn hướng tới hòa bình lâu dài dọc biên giới.Theo Campuchia, Thái Lan đã viện dẫn vụ nổ mìn ngày 10/11 tại khu vực Phnom Trop gần đền Preah Vihear, khiến ba binh sĩ bị thương, làm lý do đình chỉ thỏa thuận hòa bình và hủy kế hoạch thả 18 tù binh Campuchia."Chính phủ Campuchia kiên quyết phủ nhận cáo buộc của Thái Lan rằng Campuchia đã đặt mìn mới tại biên giới", tuyên bố cho hay, thêm rằng hầu hết bãi mìn trong khu vực là tàn tích từ cuộc xung đột ở Campuchia vào những năm 1970, 1980.Binh sĩ Campuchia ở tỉnh Oddar Meanchey ngày 25/7. Ảnh: AFP Campuchia cho biết thêm rằng nhiều khu vực biên giới vẫn chưa được rà soát bom mìn do địa hình hiểm trở và do một số khu vực vẫn chưa được phân định rõ ràng, khiến các vụ nổ ngoài ý muốn có thể xảy ra.Campuchia cũng tái khẳng định cam kết toàn diện trong thực hiện thỏa thuận hòa bình với Thái Lan, nhấn mạnh nước này "chưa bao giờ và sẽ không bao giờ sử dụng bất kỳ loại mìn mới nào".Thái Lan trước đó tuyên bố đình chỉ thỏa thuận hòa bình với Campuchia, sau vụ nổ mìn làm các binh sĩ bị thương gần biên giới. Bộ trưởng Quốc phòng Thái Lan Nattapon Narkphanit cho biết những quả mìn nhiều khả năng mới được cài vì vụ nổ xảy ra trên tuyến đường các đơn vị nước này thường xuyên tuần tra. Ông cáo buộc Campuchia không tuân thủ thỏa thuận giữa hai nước.Thỏa thuận hòa bình Campuchia và Thái Lan từng được kỳ vọng sẽ đảm bảo hòa bình lâu dài, chấm dứt các hành động thù địch sau xung đột biên giới hồi tháng 7 khiến ít nhất 43 người thiệt mạng và hơn 300.000 dân thường ở cả hai bên phải sơ tán.Theo VNELink: https://vnexpress.net/campuchia-len-tieng-ve-viec-thai-lan-dinh-chi-thoa-thuan-hoa-binh-4962429.html

Quy định mới tính tiền sử dụng đất khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất

Chính phủ ban hành Nghị định số 291/2025/NĐ-CP ngày 6/11/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và Nghị định số 104/2024/NĐ-CP ngày 31/7/2024 quy định về Quỹ phát triển đất. Trong đó, về cách tính tiền sử dụng đất khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (Giấy chứng nhận) đối với các trường hợp đang sử dụng đất được giao không đúng thẩm quyền quy định tại Điều 140 Luật Đất đai, Nghị định số 291/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung các điểm a,b,c khoản 3 Điều 12 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP quy định cách tính tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 140 Luật Đất đai.Theo quy định mới, hộ gia đình, cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 3 Điều 140 Luật Đất đai năm 2024 thì tiền sử dụng đất được tính như sau:a) Trường hợp được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (Giấy chứng nhận) theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 3 Điều 140 Luật Đất đai năm 2024 mà không có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất thì tiền sử dụng đất của phần diện tích được cấp Giấy chứng nhận là đất ở được tính như sau:Tiền sử dụng đất = Diện tích đất được cấp Giấy chứng nhận là đất ở x Giá đất ở quy định tại Bảng giá đất x 70%b) Trường hợp được cấp Giấy chứng nhận theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 3 Điều 140 Luật Đất đai năm 2024 mà có giấy tờ chứng minh đã nộp đủ tiền để được sử dụng đất theo quy định tại khoản 5 Điều này thì không phải nộp tiền sử dụng đất.Trường hợp có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất nhưng mức thu đã nộp để được sử dụng đất thấp hơn mức thu theo quy định của pháp luật tại thời điểm nộp tiền thì số tiền đã nộp được quy đổi ra tỷ lệ % diện tích đất đã hoàn thành việc nộp tiền sử dụng đất theo chính sách và giá đất tại thời điểm nộp tiền; tiền sử dụng đất của phần diện tích đất còn lại được tính theo quy định tại điểm a khoản này tại thời điểm nộp đủ hồ sơ hợp lệ đề nghị cấp Giấy chứng nhận.c) Đối với phần diện tích còn lại theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 140 Luật Đất đai năm 2024, trường hợp được công nhận vào mục đích đất ở (nếu có) và được cấp Giấy chứng nhận thì thu tiền sử dụng đất bằng 100% tiền sử dụng đất tính theo chính sách và giá đất ở quy định tại Bảng giá đất tại thời điểm nộp đủ hồ sơ hợp lệ đề nghị cấp Giấy chứng nhận.Sửa đổi quy định về miễn, giảm tiền sử dụng đấtNghị định số 291/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 17 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP quy định về nguyên tắc thực hiện miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với các đối tượng được miễn, giảm tiền sử dụng đất.Cụ thể, Nghị định số 291/2025/NĐ-CP sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP theo hướng hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất thì diện tích được miễn hoặc giảm một lần tiền sử dụng đất đối với diện tích giao đất ở. Đồng thời, làm rõ hơn nguyên tắc miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân là người dân tộc thiểu số chỉ áp dụng đối với đồng bào dân tộc thiểu số có sinh sống tại nơi có đất...Theo đó, Nghị định số 291/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 17 như sau: Hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 18, Điều 19 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP chỉ được miễn hoặc giảm một lần tiền sử dụng đất đối với diện tích đất trong hạn mức giao đất ở khi được Nhà nước giao đất để làm nhà ở hoặc được phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất khác sang đất ở hoặc được công nhận vào mục đích đất ở theo quy định của pháp luật về đất đai.Việc miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân là người nghèo, người dân tộc thiểu số chỉ áp dụng đối với hộ gia đình, cá nhân sinh sống (thường trú) tại nơi có đất; hồ sơ miễn, giảm tiền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.Đồng thời, Nghị định số 291/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 17 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP như sau: Không áp dụng miễn, giảm tiền sử dụng đất trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất; đất xây dựng nhà ở thương mại theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 157 Luật Đất đai năm 2024.Việc miễn, giảm tiền sử dụng đất trong trường hợp giao đất tái định cư thực hiện theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Riêng trường hợp miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với người phải di dời khi Nhà nước thu hồi đất do có nguy cơ đe dọa tính mạng con người và trường hợp Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở mà không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở và không có chỗ ở nào khác trong địa bàn đơn vị hành chính cấp xã nơi có đất bị thu hồi theo quy định tại điểm b, điểm l khoản 1 Điều 157 Luật Đất đai năm 2024 thì thực hiện theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 18, khoản 1 Điều 19 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP.Về nguyên tắc xử lý đối với trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện người sử dụng đất đã được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất nhưng không đáp ứng các điều kiện để được miễn, giảm theo quy định, Nghị định số 291/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 17 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP theo hướng:- Quy định việc tính số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được miễn, giảm phải thu hồi theo chính sách và giá đất tại thời điểm phải tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định (thời điểm có quyết định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất,... hoặc thời điểm bàn giao đất trên thực tế).- Phân biệt đối với trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện không đáp ứng điều kiện để được miễn, giảm hoặc sử dụng đất không đúng mục đích và trường hợp người sử dụng đề nghị không áp dụng ưu đãi (tự nguyện nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất) đối với thời gian đã được miễn, giảm do không còn đáp ứng các điều kiện để được miễn, giảm để quy định về tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được miễn, giảm phải thu hồi đối với từng trường hợp cho phù hợp.- Quy định cụ thể hơn trách nhiệm của cơ quan thuế, cơ quan có chức năng quản lý đất đai trong việc tính, thu, nộp số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được miễn, giảm phải thu hồi.Cụ thể, Nghị định số 291/2025/NĐ-CP đã sửa đổi quy định tại khoản 6 Điều 17 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP như sau: Trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền phát hiện người sử dụng đất đã được miễn, giảm tiền sử dụng đất nhưng không đáp ứng các điều kiện để được miễn, giảm tiền sử dụng đất (nếu có) theo quy định tại thời điểm được miễn, giảm hoặc sử dụng đất không đúng mục đích đã được ghi tại quyết định giao đất nhưng không thuộc trường hợp bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc người sử dụng đất đề nghị không áp dụng ưu đãi do không còn đáp ứng các điều kiện để được miễn, giảm thì phải nộp vào ngân sách nhà nước số tiền sử dụng đất đã được miễn, giảm. Việc thu hồi số tiền sử dụng đất đã được miễn, giảm thực hiện như sau:a) Số tiền sử dụng đất được miễn, giảm phải thu hồi được tính như sau:a1) Số tiền sử dụng đất được miễn, giảm phải thu hồi (bao gồm cả trường hợp người sử dụng đất đã được miễn, giảm tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật trước ngày Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành nhưng đến nay, cơ quan, người có thẩm quyền phát hiện người sử dụng đất không đáp ứng các điều kiện để được miễn, giảm tiền sử dụng đất (nếu có) theo quy định) được tính theo chính sách và giá đất tại thời điểm tính tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật từng thời kỳ cộng (+) với khoản tiền tương đương với tiền chậm nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về quản lý thuế từng thời kỳ.Trường hợp người sử dụng đất đề nghị không áp dụng ưu đãi do không còn đáp ứng các điều kiện để được miễn, giảm (tự nguyện hoàn trả số tiền sử dụng đất đã được miễn, giảm) thì số tiền sử dụng đất được miễn, giảm phải thu hồi được tính theo chính sách và giá đất tại thời điểm tính tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật từng thời kỳ cộng (+) với khoản thu bổ sung tính trên số tiền sử dụng đất được miễn, giảm phải thu hồi theo như quy định tại điểm d khoản 2 Điều 257 Luật Đất đai năm 2024, khoản 2 Điều 50 Nghị định này.Người sử dụng đất không phải hoàn trả số tiền được miễn, giảm theo địa bàn ưu đãi đầu tư nếu trong quá trình sử dụng đất có sự thay đổi quy định về Danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.) Thời gian tính khoản tiền tương đương với tiền chậm nộp, khoản thu bổ sung quy định tại tiết a1 điểm này tính từ thời điểm được miễn, giảm tiền sử dụng đất đến thời điểm cơ quan, người có thẩm quyền quyết định thu hồi số tiền sử dụng đất đã được miễn, giảm.b) Cơ quan, người có thẩm quyền quyết định miễn, giảm tiền sử dụng đất thì có thẩm quyền thu hồi số tiền sử dụng đất đã được miễn, giảm.c) Trình tự, thủ tục tính, thu hồi số tiền sử dụng đất đã được miễn, giảm:c1) Đối với trường hợp miễn tiền sử dụng đất.Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 157 Luật Đất đai năm 2024, trong quá trình thực hiện trình tự, thủ tục để giao đất, cấp Giấy chứng nhận cho người sử dụng đất, cơ quan có chức năng quản lý đất đai có trách nhiệm thống kê, tổng hợp các trường hợp được giao đất, cấp Giấy chứng nhận mà thuộc đối tượng được miễn tiền sử dụng đất, chuyển cơ quan thuế và các cơ quan liên quan để theo dõi theo quy định.Trong quá trình thực hiện, cơ quan, người có thẩm quyền phát hiện người đã được miễn tiền sử dụng đất không đáp ứng điều kiện để được miễn tiền sử dụng đất (nếu có) tại thời điểm miễn hoặc sử dụng đất không đúng mục đích đã được ghi tại quyết định giao đất nhưng không thuộc trường hợp bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì cơ quan, người có thẩm quyền gửi cơ quan có chức năng quản lý đất đai để chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, rà soát.Trường hợp sau khi kiểm tra, rà soát, xác định người đã được miễn tiền sử dụng đất không đáp ứng điều kiện để được miễn tiền sử dụng đất (tại thời điểm miễn) hoặc sử dụng đất không đúng mục đích đã được ghi tại quyết định giao đất nhưng không thuộc trường hợp bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì cơ quan có chức năng quản lý đất đai báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định thu hồi việc miễn tiền sử dụng đất và chuyển thông tin cho cơ quan thuế để tính, thu số tiền sử dụng đất phải nộp (không được miễn), khoản tiền tương đương với tiền chậm nộp tiền sử dụng đất hoặc khoản thu bổ sung (nếu có) theo quy định tại điểm a khoản này.c2) Đối với trường hợp được giảm tiền sử dụng đất:Trong quá trình thực hiện, cơ quan, người có thẩm quyền phát hiện người sử dụng đất đã được giảm tiền sử dụng đất không đáp ứng điều kiện để được giảm tiền sử dụng đất (nếu có) thì cơ quan, người có thẩm quyền gửi cơ quan thuế để chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, rà soát, xác định việc đáp ứng các điều kiện để được giảm tiền sử dụng đất theo quy định và tính, thu số tiền sử dụng đất phải nộp (không được giảm), khoản tiền tương đương với tiền chậm nộp tiền sử dụng đất hoặc khoản thu bổ sung (nếu có) theo quy định tại điểm a khoản này.d) Cơ quan thuế chủ trì, phối hợp với cơ quan có chức năng quản lý đất đai để tính, thu số tiền quy định tại điểm a khoản này.Quy định mới về thẩm quyền quyết định miễn tiền sử dụng đấtCùng với đó, Nghị định số 291/2025/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 18 Nghị định số 103/2024/NĐ-CP theo hướng quy định về thẩm quyền quyết định miễn tiền sử dụng đất.Theo quy định mới, thẩm quyền quyết định miễn tiền sử dụng đất là người có thẩm quyền quyết định giao đất theo quy định tại Điều 123 Luật Đất đai năm 2024 quyết định việc miễn tiền sử dụng đất khi quyết định giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất cho đối tượng tương ứng với đối tượng thuộc thẩm quyền giao đất theo hồ sơ trình của cơ quan có chức năng quản lý đất đai; trong đó ghi rõ nội dung: lý do miễn, diện tích được miễn tiền sử dụng đất.Các quy định trên có hiệu lực từ ngày 6/11/2025.Tải văn bản về tại đây./.Theo Chinhphu.vn

  • Đang truy cập21
  • Hôm nay191
  • Tháng hiện tại13,630
  • Tổng lượt truy cập1,309,041