Trang trọng lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống lực lượng vũ trang Hà Tĩnh

Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh trang trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống lực lượng vũ trang Hà Tĩnh (18/8/1945 - 18/8/2025).

Các đại biểu tham dự lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống lực lượng vũ trang Hà Tĩnh (18/8/1945 - 18/8/2025) và đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì của Chủ tịch nước tặng Bộ CHQS tỉnh.
 

Sáng 18/8, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh Hà Tĩnh trang trọng tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống lực lượng vũ trang tỉnh (18/8/1945 - 18/8/2025) và đón nhận Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì của Chủ tịch nước tặng thưởng Bộ CHQS tỉnh.

Tham dự lễ kỷ niệm có Thiếu tướng Đoàn Xuân Bường - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 4; Thiếu tướng Võ Tiến Nghị - Phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam.

Về phía tỉnh Hà Tĩnh có các đồng chí: Nguyễn Duy Lâm – Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh; Trần Thế Dũng - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Võ Trọng Hải – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; Đại tá Chăn Ny Sỷ Súc - Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bolikhamxay; các đồng chí nguyên lãnh đạo tỉnh; các đồng chí Ủy viên BTV Tỉnh ủy; đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành; Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân và lãnh đạo lực lượng vũ trang tỉnh qua các thời kỳ.

Đồng chí Nguyễn Duy Lâm – Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh trình bày diễn văn lễ kỷ niệm.
 

Đọc diễn văn tại lễ kỷ niệm, đồng chí Nguyễn Duy Lâm – Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh nhấn mạnh: Ra đời từ trong phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, ngay sau ngày đất nước mới giành được độc lập (9/1945), lực lượng giải phóng quân của tỉnh đã phối hợp với lực lượng vũ trang Nghệ An, quân và dân nước bạn Lào chủ động tấn công đồn Na Pê ở khu vực biên giới. Đây là trận phối hợp chiến đấu đầu tiên và là chiến thắng chung của quân dân hai tỉnh Hà Tĩnh - Nghệ An và Nhân dân Lào anh em, ngăn chặn âm mưu xâm lược của thực dân Pháp từ hướng Tây xuống địa bàn Nghệ Tĩnh.

Bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, Hà Tĩnh là hậu phương nhưng cũng phải đối chọi với nhiều cuộc tập kích, phá hoại của địch. Lực lượng vũ trang Hà Tĩnh đã bảo vệ vững chắc hậu phương và chi viện kịp thời cho các chiến trường; cử hàng trăm cán bộ, chiến sĩ gia nhập Trung đoàn Quân tình nguyện ở Lào (Trung đoàn Trung Lào) tham gia chiến đấu, đảm nhận vai trò hậu phương cho các chiến dịch, góp phần to lớn vào chiến thắng Trung Lào.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Tĩnh là tiền tuyến của miền Bắc và hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam. Trước những khó khăn thử thách và bom đạn ác liệt của kẻ thù, lực lượng vũ trang Hà Tĩnh đã cùng Nhân dân toàn tỉnh kiên cường bám trụ, vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo đảm giao thông vận tải, chi viện cho các chiến trường với tinh thần tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Trong 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, tỉnh Hà Tĩnh đã có rất nhiều tấm gương chiến đấu anh dũng hy sinh, nhiều tên đất, tên làng đã ghi dấu chiến công vào lịch sử của quê hương, đất nước.

Thiếu tướng Đoàn Xuân Bường - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 4; Thiếu tướng Võ Tiến Nghị - Phó Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam; đồng chí Nguyễn Duy Lâm – Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh; đồng chí Trần Văn Kỳ - Phó Chủ tịch HĐND tỉnh tham quan không gian trưng bày tư liệu về LLVT Hà Tĩnh.
 

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, phát huy truyền thống anh dũng kiên cường, bất khuất trong chiến đấu, quân và dân Hà Tĩnh ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống Nhân dân.

Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự giúp đỡ của các cơ quan, ban, ngành đoàn thể địa phương, sự đùm bọc, che chở của Nhân dân, sự phối hợp, hiệp đồng của các đơn vị bạn, lực lượng vũ trang Hà Tĩnh đã xây nên truyền thống vẻ vang “Trung hiếu, đoàn kết, dũng cảm, sáng tạo”.

Đại tá Trần Hậu Tám, nguyên Phó Chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng Bộ CHQS tỉnh, nguyên Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh - đại diện Hội Cựu chiến binh tỉnh; chị Phạm Thị Giang - Ủy viên Ban Thường vụ Đoàn xã Cẩm Xuyên phát biểu tại lễ kỷ niệm.
 

Những thành tích của lực lượng vũ trang Hà Tĩnh trong suốt 80 năm qua, nhất là những năm gần đây đã đóng góp quan trọng, xứng đáng vào những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, góp phần đưa Hà Tĩnh trở thành tỉnh có tốc độ tăng trưởng và quy mô nền kinh tế thuộc nhóm khá của cả nước.

Kế thừa và tiếp nối mạch nguồn truyền thống 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Hà Tĩnh hôm nay quyết tâm giữ vững và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, truyền thống “Trung hiếu, đoàn kết, dũng cảm, sáng tạo”; làm tốt chức năng tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự - quốc phòng; làm nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng tiềm lực và thế trận khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc.

Nắm chắc tình hình, dự báo chính xác và xử lý kịp thời các tình huống “từ sớm, từ xa”, không để địa phương bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục triển khai có hiệu quả phong trào thi đua quyết thắng, lực lượng vũ trang tỉnh chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh; chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh nhà, cùng cả nước vững bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, phồn vinh và thịnh vượng.

Tại lễ kỷ niệm, Đại tá Võ Quang Thiện - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Quân sự tỉnh, Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã đọc thư khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi lực lượng vũ trang Hà Tĩnh.

Đại tá Võ Quang Thiện đọc thư khen của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi lực lượng vũ trang Hà Tĩnh.
 

Phát biểu tại lễ kỷ niệm, thay mặt Thường vụ Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu, Thiếu tướng Đoàn Xuân Bường - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 4 biểu dương, chúc mừng những chiến công và thành tích xuất sắc mà các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Hà Tĩnh đã giành được trong 80 năm qua.

Thiếu tướng Đoàn Xuân Bường - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 4 phát biểu tại lễ kỷ niệm.
 

Để phát huy truyền thống vẻ vang, tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang Hà Tĩnh vững mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Thiếu tướng Đoàn Xuân Bường đề nghị cấp ủy, chỉ huy và các cán bộ, chiến sĩ tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng; tập trung giáo dục, xây dựng cho cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang Hà Tĩnh có bản lĩnh chính trị vững vàng; tổ chức biên chế, xây dựng cơ quan quân sự địa phương các cấp, xây dựng lực lượng “tinh, gọn, mạnh”.

Tích cực, chủ động chuẩn bị tốt các phương án, lực lượng, phương tiện sẵn sàng tham gia giúp Nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn khi có tình huống xảy ra; quan tâm bảo đảm tốt công tác hậu cần, kỹ thuật, tài chính cho các nhiệm vụ; tiếp tục thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần giữ vững, tăng cường mối quan hệ đoàn kết hữu nghị quốc tế, nâng cao vị thế của lực lượng vũ trang Hà Tĩnh trong giai đoạn mới.

Chủ tịch UBND tỉnh Võ Trọng Hải phát biểu tại lễ kỷ niệm.
 

Thay mặt lãnh đạo tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh Võ Trọng Hải cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo kịp thời, có hiệu quả của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đối với lực lượng vũ trang Hà Tĩnh. Đồng thời mong muốn Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 thời gian tới, tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ lực lượng vũ trang tỉnh nhà hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.

Tại lễ kỷ niệm, thừa ủy quyền Chủ tịch nước, Thiếu tướng Đoàn Xuân Bường - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 4 đã trao tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì cho Bộ CHQS tỉnh.

Thiếu tướng Đoàn Xuân Bường - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 4 trao tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì cho Bộ CHQS tỉnh.
 

Các đồng chí: Thiếu tướng Đoàn Xuân Bường - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 4; Nguyễn Duy Lâm – Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh; Trần Thế Dũng - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; Võ Trọng Hải – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; Đại tá Chăn Ny Sỷ Súc - Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bolikhamxay tặng hoa chúc mừng Bộ CHQS tỉnh.
 

Các đồng chí lãnh đạo Quân khu 4, BĐBP Việt Nam, lãnh đạo tỉnh, nguyên lãnh đạo tỉnh, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bolikhamxay chụp ảnh lưu niệm với lãnh đạo Bộ CHQS tỉnh.

Theo BHT

 

Link: https://baohatinh.vn/trang-trong-le-ky-niem-80-nam-ngay-truyen-thong-luc-luong-vu-trang-ha-tinh-post293901.html

Xem nhiều nhất

Không có gì quý hơn độc lập, tự do: Nguồn động lực để đất nước vươn mình

Thông tin tuyên truyền 1 ngày trước

"Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vang lên giữa những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không chỉ là khẩu hiệu chiến đấu, mà là một định đề chính trị, một hệ giá trị tư tưởng và một bản lĩnh quốc gia. Trong bối cảnh đất nước tiếp tục chuyển mình mạnh mẽ trước làn sóng toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh địa chính trị – địa kinh tế phức tạp, tư tưởng này tiếp tục là nền tảng để định hình đường lối phát triển của Việt Nam hiện đại. Tư tưởng khởi nguồn từ thực tiễn lịch sử và bản lĩnh dân tộcKhông đơn thuần là một khẩu hiệu, câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là sự kết tinh của lịch sử dân tộc và tư duy cách mạng Hồ Chí Minh – một tư tưởng được hun đúc từ thực tiễn đau thương, khát vọng giải phóng và tinh thần làm chủ vận mệnh của nhân dân Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm bị đô hộ và chia cắt, dân tộc ta đã khẳng định một chân lý: Quyền được làm chủ vận mệnh dân tộc và quyền sống có phẩm giá là điều thiêng liêng nhất. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh tư liệuChủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã trải qua 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước chính là hiện thân tiêu biểu của tư tưởng đó. Từ bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles năm 1919, cho đến bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945, rồi đến lời hiệu triệu kháng chiến chống Mỹ năm 1966, có thể thấy rằng tư tưởng về độc lập – tự do là trục xuyên suốt, nhất quán và ngày càng được cụ thể hóa theo từng thời kỳ. Chính sự gắn bó giữa lý tưởng và thực tiễn ấy đã tạo nên sức mạnh thuyết phục sâu rộng của tư tưởng Hồ Chí Minh – không chỉ với nhân dân Việt Nam, mà còn với bạn bè quốc tế, những ai yêu chuộng hòa bình và công lý.Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa đơn thuần, mà còn thể hiện một tầm nhìn nhân văn, tiến bộ và toàn diện. Hồ Chí Minh không đối lập giữa độc lập dân tộc và tự do cá nhân, ngược lại, Người coi đó là hai mặt của một giá trị thống nhất. Khi khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm đi trước thời đại, vượt lên trên nhiều mô hình cách mạng vốn chỉ dừng lại ở thay đổi thể chế mà không đặt con người làm trung tâm.Trong quan niệm của Người, độc lập không thể tách rời với năng lực làm chủ của mỗi cá nhân – từ sinh kế, tri thức, đến quyền phát triển toàn diện. Tự do không phải là khái niệm trừu tượng mà rất cụ thể: “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Sự cụ thể ấy chính là điểm khác biệt giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều lý thuyết mang tính hình thức. Người không chỉ nói về tự do, mà kiến tạo các điều kiện thực chất để nhân dân được sống tự do.Ngọn cờ tư tưởng trong suốt chiều dài cách mạngTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, kim chỉ nam xuyên suốt chiều dài cách mạng Việt Nam, là động lực và định hướng, dẫn dắt dân tộc ta từ công cuộc giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc đến thời kỳ Đổi mới, hội nhập và khát vọng vươn mình của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.Dưới ánh sáng tư tưởng ấy, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, giành độc lập từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật; đã chiến đấu kiên cường suốt ba thập niên để thống nhất đất nước; và tiếp tục vững bước trong công cuộc Đổi mới từ năm 1986 đến nay.Tư tưởng đó không chỉ là động lực tinh thần, mà còn là điểm tựa để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị thống nhất và bền vững, làm nên thắng lợi của mô hình “dân làm gốc”, “lấy dân làm trung tâm”. Đó là nguồn sức mạnh để lớp lớp thanh niên ra trận, để các bà mẹ tiễn con đi chiến đấu mà không đòi hỏi điều kiện nào khác ngoài một khát vọng giản dị: Đất nước được độc lập, nhân dân được tự do.Trong thế kỷ 21, độc lập và tự do không còn chỉ mang nghĩa chống ngoại xâm hay giữ chủ quyền lãnh thổ. Đó còn là năng lực tự chủ trong phát triển, là quyền hoạch định con đường tương lai của quốc gia trên nền tảng văn hóa, kinh tế, khoa học – công nghệ. Một đất nước độc lập hôm nay là quốc gia có khả năng định hình thể chế của riêng mình, thiết kế chính sách theo lợi ích dân tộc mà không bị lệ thuộc, đồng thời chủ động hội nhập mà không đánh mất bản sắc.Tự do trong thời đại hiện nay còn gắn liền với tự do tư duy, tự do sáng tạo, tự do khởi nghiệp, tự do học thuật, tự do tiếp cận cơ hội phát triển…, chính là sự tiếp nối và phát triển từ tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” của Hồ Chí Minh. 80 năm sau Cách mạng Tháng Tám, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” vẫn soi đường cho đất nước trên hành trình Đổi mới và hội nhập, hội nhập và phát triển trong kỷ nguyên mới.Không phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí thư Tô Lâm gần đây nhấn mạnh rằng: Phải đột phá thể chế, pháp luật, khơi thông những điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực để đất nước vươn mình. Điều đó cho thấy, tư tưởng độc lập – tự do không chỉ là một lý tưởng tinh thần, mà cần được cụ thể hóa trong khuôn khổ pháp lý, thể chế và chính sách. Cải cách thể chế không đơn thuần là điều chỉnh hành chính, mà là một cuộc giải phóng toàn diện mọi nguồn lực xã hội, tạo điều kiện để mỗi người dân trở thành chủ thể phát triển – đó chính là ý nghĩa sâu xa của tự do trong một nhà nước pháp quyền hiện đại.Di sản trường tồn mãi mãiTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh là di sản quý báu, là nền tảng tư tưởng – lý luận của Đảng và dân tộc ta. Đó là sự kết tinh của lương tri nhân loại và bản lĩnh dân tộc Việt Nam, là ánh sáng đã soi đường cho cách mạng Việt Nam trong cả thời chiến và thời bình. Tư tưởng ấy không chỉ dừng lại ở các bản văn lịch sử, mà đang sống động trong từng chính sách, từng hành động, từng quyết sách của đất nước.Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 không chỉ là dịp để ôn lại quá khứ hào hùng, mà còn là cơ hội để soi chiếu hiện tại và định hình tương lai từ những giá trị trường tồn. Một quốc gia hiện đại không thể tách rời tinh thần độc lập dân tộc, cũng như một xã hội văn minh không thể tồn tại nếu thiếu tự do và quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, tiếp nối và phát triển tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong điều kiện mới chính là con đường duy nhất để dân tộc Việt Nam phát triển bền vững và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.Theo VOVLink: https://vov.vn/chinh-tri/khong-co-gi-quy-hon-doc-lap-tu-do-nguon-dong-luc-de-dat-nuoc-vuon-minh-post1225348.vov