Biểu dương 7 địa phương có tỷ lệ giải ngân cao hơn bình quân chung cả nước

(Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo 223/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp với các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương thuộc Tổ Công tác số 2 kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2025.

Biểu dương 7 địa phương có tỷ lệ giải ngân cao hơn bình quân chung cả nước - Ảnh 1.

Tập trung thực hiện quyết liệt các giải pháp để đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công

Theo Thông báo, Phó Thủ tướng ghi nhận sự cố gắng của các Bộ, cơ quan, địa phương thuộc Tổ công tác số 2 trong giải ngân vốn đầu tư công. Biểu dương 7 địa phương thuộc Tổ công tác số 2 (Phú Thọ, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Bắc Giang và Hòa Bình) đã triển khai rất tốt nhiệm vụ với tỷ lệ giải ngân cao hơn nhiều mức bình quân chung của cả nước. Đối với các bộ, ngành, địa phương có tỷ lệ giải ngân thấp hơn trung bình cả nước (Đại học Quốc gia Hà Nội: 5,8%; Thành phố Hà Nội: 10,9%; Quảng Trị: 10,8%; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: 12,21%; Bộ Nông nghiệp và Môi trường 12,4%; Bộ Xây dựng: 14,5%) cần rút kinh nghiệm, đẩy nhanh triển khai thủ tục đầu tư, triển khai thi công trong thời gian tới.

Tổ công tác số 2 là một trong những Tổ công tác có lượng vốn giao lớn nhất trong 7 Tổ công tác của Chính phủ (được giao 253.255 tỷ đồng, chiếm 30,6% tổng kế hoạch vốn đầu tư được Thủ tướng Chính phủ giao của cả nước). Do vậy, kết quả giải ngân của Tổ công tác số 2 ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải ngân chung của cả nước. 

Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tiến độ thi công

Để phấn đấu hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn đầu tư công năm 2025, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đề nghị các cơ quan trung ương và yêu cầu Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Phú Thọ, Bắc Giang, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị tập trung thực hiện quyết liệt các giải pháp để đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; trong đó cần đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tiến độ thi công, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc về đất đai, tài nguyên...

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tại hiện trường, đôn đốc các nhà thầu, tư vấn đẩy nhanh tiến độ; chủ động rà soát, điều chuyển vốn theo thẩm quyền giữa các dự án chậm giải ngân sang các dự án có khả năng giải ngân tốt hơn và còn thiếu vốn theo quy định; phân công cụ thể lãnh đạo chịu trách nhiệm theo dõi tiến độ thực hiện; bám sát, kịp thời tháo gỡ khó khăn một cách thực chất, hiệu quả theo thẩm quyền, vượt thẩm quyền thì báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định.

Giải quyết các kiến nghị của các Bộ, cơ quan, địa phương

Các nội dung liên quan đến phân bổ, bổ sung vốn, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công, kéo dài kế hoạch vốn năm 2024 sang năm 2025 và kiến nghị của tỉnh Quảng Trị cho phép địa phương được chủ động điều chuyển số vốn ngân sách Trung ương đã giao của Dự án tuyến đường bộ ven biển đoạn qua khu vực Cửa Tùng và Cửa Việt nhưng không giải ngân hết năm 2025 cho dự án khác trong nội bộ tỉnh, địa phương bố trí đủ phần vốn này năm 2026: Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính tiếp thu, nghiên cứu để kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền nếu vượt thẩm quyền, hoàn thành trước ngày 15 tháng 5 năm 2025.

Bộ Xây dựng chủ trì xử lý dứt điểm các nội dung vướng mắc liên quan đến việc phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 tại các dự án do Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh quản lý trong tháng 5 năm 2025.

Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội xử lý dứt điểm vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng các dự án của Đại học Quốc gia Hà Nội trong tháng 5 năm 2025, bảo đảm không làm ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện, giải ngân dự án.

Các Bộ: Tài chính, Xây dựng, Nông nghiệp và Môi trường, Tư pháp theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan thuộc Tổ công tác số 2 để chủ động xử lý ngay những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công; đối với nội dung vượt thẩm quyền, kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền phương án xử lý theo đúng quy định pháp luật.

Minh Hiển

 

Xem nhiều nhất

Không có gì quý hơn độc lập, tự do: Nguồn động lực để đất nước vươn mình

Thông tin tuyên truyền 1 ngày trước

"Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vang lên giữa những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không chỉ là khẩu hiệu chiến đấu, mà là một định đề chính trị, một hệ giá trị tư tưởng và một bản lĩnh quốc gia. Trong bối cảnh đất nước tiếp tục chuyển mình mạnh mẽ trước làn sóng toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh địa chính trị – địa kinh tế phức tạp, tư tưởng này tiếp tục là nền tảng để định hình đường lối phát triển của Việt Nam hiện đại. Tư tưởng khởi nguồn từ thực tiễn lịch sử và bản lĩnh dân tộcKhông đơn thuần là một khẩu hiệu, câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là sự kết tinh của lịch sử dân tộc và tư duy cách mạng Hồ Chí Minh – một tư tưởng được hun đúc từ thực tiễn đau thương, khát vọng giải phóng và tinh thần làm chủ vận mệnh của nhân dân Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm bị đô hộ và chia cắt, dân tộc ta đã khẳng định một chân lý: Quyền được làm chủ vận mệnh dân tộc và quyền sống có phẩm giá là điều thiêng liêng nhất. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh tư liệuChủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã trải qua 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước chính là hiện thân tiêu biểu của tư tưởng đó. Từ bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles năm 1919, cho đến bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945, rồi đến lời hiệu triệu kháng chiến chống Mỹ năm 1966, có thể thấy rằng tư tưởng về độc lập – tự do là trục xuyên suốt, nhất quán và ngày càng được cụ thể hóa theo từng thời kỳ. Chính sự gắn bó giữa lý tưởng và thực tiễn ấy đã tạo nên sức mạnh thuyết phục sâu rộng của tư tưởng Hồ Chí Minh – không chỉ với nhân dân Việt Nam, mà còn với bạn bè quốc tế, những ai yêu chuộng hòa bình và công lý.Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa đơn thuần, mà còn thể hiện một tầm nhìn nhân văn, tiến bộ và toàn diện. Hồ Chí Minh không đối lập giữa độc lập dân tộc và tự do cá nhân, ngược lại, Người coi đó là hai mặt của một giá trị thống nhất. Khi khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm đi trước thời đại, vượt lên trên nhiều mô hình cách mạng vốn chỉ dừng lại ở thay đổi thể chế mà không đặt con người làm trung tâm.Trong quan niệm của Người, độc lập không thể tách rời với năng lực làm chủ của mỗi cá nhân – từ sinh kế, tri thức, đến quyền phát triển toàn diện. Tự do không phải là khái niệm trừu tượng mà rất cụ thể: “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Sự cụ thể ấy chính là điểm khác biệt giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều lý thuyết mang tính hình thức. Người không chỉ nói về tự do, mà kiến tạo các điều kiện thực chất để nhân dân được sống tự do.Ngọn cờ tư tưởng trong suốt chiều dài cách mạngTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, kim chỉ nam xuyên suốt chiều dài cách mạng Việt Nam, là động lực và định hướng, dẫn dắt dân tộc ta từ công cuộc giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc đến thời kỳ Đổi mới, hội nhập và khát vọng vươn mình của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.Dưới ánh sáng tư tưởng ấy, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, giành độc lập từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật; đã chiến đấu kiên cường suốt ba thập niên để thống nhất đất nước; và tiếp tục vững bước trong công cuộc Đổi mới từ năm 1986 đến nay.Tư tưởng đó không chỉ là động lực tinh thần, mà còn là điểm tựa để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị thống nhất và bền vững, làm nên thắng lợi của mô hình “dân làm gốc”, “lấy dân làm trung tâm”. Đó là nguồn sức mạnh để lớp lớp thanh niên ra trận, để các bà mẹ tiễn con đi chiến đấu mà không đòi hỏi điều kiện nào khác ngoài một khát vọng giản dị: Đất nước được độc lập, nhân dân được tự do.Trong thế kỷ 21, độc lập và tự do không còn chỉ mang nghĩa chống ngoại xâm hay giữ chủ quyền lãnh thổ. Đó còn là năng lực tự chủ trong phát triển, là quyền hoạch định con đường tương lai của quốc gia trên nền tảng văn hóa, kinh tế, khoa học – công nghệ. Một đất nước độc lập hôm nay là quốc gia có khả năng định hình thể chế của riêng mình, thiết kế chính sách theo lợi ích dân tộc mà không bị lệ thuộc, đồng thời chủ động hội nhập mà không đánh mất bản sắc.Tự do trong thời đại hiện nay còn gắn liền với tự do tư duy, tự do sáng tạo, tự do khởi nghiệp, tự do học thuật, tự do tiếp cận cơ hội phát triển…, chính là sự tiếp nối và phát triển từ tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” của Hồ Chí Minh. 80 năm sau Cách mạng Tháng Tám, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” vẫn soi đường cho đất nước trên hành trình Đổi mới và hội nhập, hội nhập và phát triển trong kỷ nguyên mới.Không phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí thư Tô Lâm gần đây nhấn mạnh rằng: Phải đột phá thể chế, pháp luật, khơi thông những điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực để đất nước vươn mình. Điều đó cho thấy, tư tưởng độc lập – tự do không chỉ là một lý tưởng tinh thần, mà cần được cụ thể hóa trong khuôn khổ pháp lý, thể chế và chính sách. Cải cách thể chế không đơn thuần là điều chỉnh hành chính, mà là một cuộc giải phóng toàn diện mọi nguồn lực xã hội, tạo điều kiện để mỗi người dân trở thành chủ thể phát triển – đó chính là ý nghĩa sâu xa của tự do trong một nhà nước pháp quyền hiện đại.Di sản trường tồn mãi mãiTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh là di sản quý báu, là nền tảng tư tưởng – lý luận của Đảng và dân tộc ta. Đó là sự kết tinh của lương tri nhân loại và bản lĩnh dân tộc Việt Nam, là ánh sáng đã soi đường cho cách mạng Việt Nam trong cả thời chiến và thời bình. Tư tưởng ấy không chỉ dừng lại ở các bản văn lịch sử, mà đang sống động trong từng chính sách, từng hành động, từng quyết sách của đất nước.Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 không chỉ là dịp để ôn lại quá khứ hào hùng, mà còn là cơ hội để soi chiếu hiện tại và định hình tương lai từ những giá trị trường tồn. Một quốc gia hiện đại không thể tách rời tinh thần độc lập dân tộc, cũng như một xã hội văn minh không thể tồn tại nếu thiếu tự do và quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, tiếp nối và phát triển tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong điều kiện mới chính là con đường duy nhất để dân tộc Việt Nam phát triển bền vững và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.Theo VOVLink: https://vov.vn/chinh-tri/khong-co-gi-quy-hon-doc-lap-tu-do-nguon-dong-luc-de-dat-nuoc-vuon-minh-post1225348.vov