Rầm rập triệu bước chân

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công chứng minh sức mạnh từ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, kết hợp với lòng yêu nước nồng nàn trong muôn triệu dân chúng yêu Tổ quốc hơn cả máu của mình. Một khí thế chưa từng có trong lịch sử dân tộc đã được tạo lập trong những ngày mùa thu lịch sử ấy.

Không dễ để tạo nên một cuộc cách mạng trong bối cảnh chính trị rối ren của những năm 1945, khi các đảng phái chính trị đồng thời xuất hiện trên cùng một bờ cõi. Đứng sau các đảng phái “mọc lên như nấm” thời ấy (GS. Lê Thành Khôi), dĩ nhiên là các trí thức, thậm chí có bàn tay phía sau của các quốc gia bên ngoài.

Giữa bối cảnh ấy, nếu không có một sợi chỉ đỏ chạm đến trái tim nồng hậu của dân chúng, cuộc cách mạng sẽ thất bại, bởi vì không thể tập hợp được lực lượng. Trong khi, tất cả các lý thuyết về chiến tranh từ cổ chí kim đều khẳng định rằng, sức mạnh của cách mạng thuộc về dân chúng. “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” (Nguyễn Trãi).

Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân Võ Nguyên Giáp đọc tuyên thệ tại lễ thành lập, ngày 22/12/1944. (Ảnh tư liệu)
 

Trong một bối cảnh hỗn loạn của đất nước giữa lúc Nhật, Pháp đang rối ren, các luồng tư tưởng xáo trộn, bằng thiên tài và đạo đức vô song của người dẫn đường (Hồ Chí Minh), bằng những trí thức tiên tiến, có tài thao lược, luôn đặt Tổ quốc lên trên hết (rõ nhất là Võ Nguyên Giáp), tập thể những con người của Đảng ta đã tập hợp một cách thuyết phục đông đảo dân chúng thuộc các giai cấp, tầng lớp khác nhau đứng về tính chính nghĩa của ngọn cờ Độc lập.

Đội quân Việt Minh đã không quản ngại gian lao, hiểm nguy, mưu trí xây dựng lực lượng chính trị, tập hợp võ trang, tích cực tuyên truyền trong mọi không gian từ miền núi tới đồng bằng, đô thị để thể hiện chung một ý chí - giành độc lập, lật đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi Pháp và Nhật.

Trong cuốn sách về lịch sử Việt Nam được GS. Phan Huy Lê gọi là “kinh điển”, GS. Lê Thành Khôi - khi đó đang sống tại hải ngoại, đã viết rất chân thực, đầy diễm lệ về đoàn quân Việt Minh: “Việt Minh trước hết được làn sóng Nhân dân thực sự nâng đỡ vì đã biết nắm bắt những khát vọng ẩn sâu của Nhân dân. Cuộc cách mạng sẽ toàn thắng một cách dễ dàng cho thấy sức mạnh và sự đồng lòng của tình cảm dân tộc”(1).

Cùng với yếu tố mấu chốt đó, GS. Lê Thành Khôi cũng đã trung thực đề cập về sự tài tình trong “chiến thuật” của Việt Minh khi khéo léo sử dụng các nhân vật ngoại quốc, gài người vào các đảng phái kình địch. Ông còn viết rất rõ trong bối cảnh trước khi khởi nghĩa: “Uy tín của phong trào (Việt Minh - P.V) càng lên, khẩu hiệu của phong trào được phổ biến khắp nơi. Người của phong trào chiếm các kho gạo và phân phát gạo cho nông dân (...). Số người được cài vào các làng và các công sở ngày càng nhiều. Tại căn cứ địa Việt Bắc, các khâu chuẩn bị đang hoàn tất, tiến tới cuộc Cách mạng Tháng Tám, cuộc cách mạng sẽ mở ra một trang sử mới trong lịch sử Việt Nam”(2).

Mít tinh tại quảng trường Nhà hát Lớn ngày 19/8/1945. Ảnh tư liệu.
 

Từ ngọn cờ Độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam từ mọi miền đã nhất tề vùng lên với một khí thế và khát vọng chưa từng có. Chính vì vậy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn dân: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, triệu triệu bước chân đã chung một con đường, chung một ý chí. Chiều 16/8/1945, theo chỉ đạo của Ủy ban Khởi nghĩa, một đơn vị giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy xuất phát từ Tân Trào, tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên - mở màn cho chiến dịch quân sự hỗ trợ tổng khởi nghĩa.

Từ Việt Bắc tới mọi miền Tổ quốc thân yêu, phong trào đấu tranh cách mạng lan rộng và mạnh mẽ như thác nước. Ngày 18/8/1945, các tỉnh: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam là những địa phương đầu tiên giành được chính quyền tại tỉnh lỵ - tạo khí thế bừng bừng. Tại Hà Nội, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới trước hàng vạn người biểu tình nơi Nhà hát lớn. Ngày 18/8, viên khâm sai từ chức; ngày 19/8, Việt Minh chiếm các công sở, chính quyền Bảo Đại - Trần Trọng Kim tan rã. Đêm 19/8/1945, chúng ta hoàn toàn làm chủ Thủ đô. Tại Huế, sau khi Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập (ngày 20/8/1945) và ngày 23/8/1945, hàng vạn người tiến vào thành phố, giành chính quyền trong hòa bình. Tại Sài Gòn - Gia Định (sau này là TP Hồ Chí Minh), Xứ ủy Nam Kỳ ấn định ngày khởi nghĩa là 25/8/1945. Ngày đó, các đoàn công nhân, nông dân, thanh niên từ Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho đổ về trung tâm thành phố biểu tình tuần hành, chiếm lấy các cơ sở của chính quyền bù nhìn, tạo nên một cảnh tượng chưa từng có.

Thắng lợi vang dội tại 3 đô thị lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đất liền đến hải đảo - phong trào khởi nghĩa dâng lên như vũ bão.

Dưới ngọn cờ Độc lập, toàn quốc đã tạo nên sự thống nhất thiêng liêng chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Thắng lợi này đã dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ. Từ đây, với nền tảng trí tuệ của Đảng và sức mạnh của dân chúng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bước vào bình diện củng cố quốc gia trên tất cả các mặt gồm đối nội và đối ngoại.

Sử sách đã viết hàng nghìn trang về sự tài tình trong lãnh đạo quốc gia giai đoạn “trứng nước” giữa bối cảnh thù trong, giặc ngoài và hậu quả của nạn đói năm 1945 để lại. Không dễ để lập nên một Chính phủ, tạo ra một bản Hiến pháp vô cùng ý nghĩa (năm 1946) giữa bối cảnh đấu tranh chính trị cam go từng tình huống, quốc gia vừa độc lập… nếu không phải người đứng đầu là vị lãnh tụ kiệt xuất - Hồ Chí Minh. Lịch sử mãi mãi không quên công ơn Người kể từ ngày Người ra đi tìm đường cứu nước cho đến các giai đoạn cam go của lịch sử với những quyết định “đấu trí” hết sức tài tình trước các thế lực thù trong, giặc ngoài.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng một số thành viên Chính phủ Cách mạng lâm thời sáng ngày 2/9/1945 tại Hà Nội (Ảnh: TTXVN).
 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công để lại nhiều bài học vô giá, nhưng có lẽ, bài học quan trọng nhất là mối quan hệ kết hợp giữa sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Những bài học quan trọng ấy được Đảng ta luôn luôn phát huy sáng tạo trong bối cảnh lịch sử cụ thể, từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Mỹ, thực hiện cải cách thời đổi mới cho đến tận ngày nay.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ngày càng củng cố khối đoàn kết, quyết tâm xây đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hiện thực hóa Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ. Trong bài viết với tiêu đề hết sức cô đọng “Sức mạnh của đoàn kết”, GS.TS Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã phân tích rất sâu sắc các vấn đề lý luận và thực tiễn của sức mạnh đoàn kết. Trong bối cảnh hiện nay, Tổng Bí thư Tô Lâm tin tưởng: “Sức mạnh của đoàn kết một lần nữa sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại, biến thách thức thành cơ hội, đưa đất nước vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phồn vinh, thịnh vượng, hội nhập và phát triển bền vững vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân”(3).

-----------------------

(1), (2) Lê Thành Khôi, “Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX”, NXB Thế giới, Hà Nội, 2014, tr.563, 560.

(3) GS.TS Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, “Sức mạnh của đoàn kết”, https://tapchicongsan.org.vn.

Theo BHT

Link: https://baohatinh.vn/ram-rap-trieu-buoc-chan-post293938.html

Xem nhiều nhất

Không có gì quý hơn độc lập, tự do: Nguồn động lực để đất nước vươn mình

Thông tin tuyên truyền 1 ngày trước

"Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vang lên giữa những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không chỉ là khẩu hiệu chiến đấu, mà là một định đề chính trị, một hệ giá trị tư tưởng và một bản lĩnh quốc gia. Trong bối cảnh đất nước tiếp tục chuyển mình mạnh mẽ trước làn sóng toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh địa chính trị – địa kinh tế phức tạp, tư tưởng này tiếp tục là nền tảng để định hình đường lối phát triển của Việt Nam hiện đại. Tư tưởng khởi nguồn từ thực tiễn lịch sử và bản lĩnh dân tộcKhông đơn thuần là một khẩu hiệu, câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là sự kết tinh của lịch sử dân tộc và tư duy cách mạng Hồ Chí Minh – một tư tưởng được hun đúc từ thực tiễn đau thương, khát vọng giải phóng và tinh thần làm chủ vận mệnh của nhân dân Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm bị đô hộ và chia cắt, dân tộc ta đã khẳng định một chân lý: Quyền được làm chủ vận mệnh dân tộc và quyền sống có phẩm giá là điều thiêng liêng nhất. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh tư liệuChủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã trải qua 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước chính là hiện thân tiêu biểu của tư tưởng đó. Từ bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles năm 1919, cho đến bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945, rồi đến lời hiệu triệu kháng chiến chống Mỹ năm 1966, có thể thấy rằng tư tưởng về độc lập – tự do là trục xuyên suốt, nhất quán và ngày càng được cụ thể hóa theo từng thời kỳ. Chính sự gắn bó giữa lý tưởng và thực tiễn ấy đã tạo nên sức mạnh thuyết phục sâu rộng của tư tưởng Hồ Chí Minh – không chỉ với nhân dân Việt Nam, mà còn với bạn bè quốc tế, những ai yêu chuộng hòa bình và công lý.Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa đơn thuần, mà còn thể hiện một tầm nhìn nhân văn, tiến bộ và toàn diện. Hồ Chí Minh không đối lập giữa độc lập dân tộc và tự do cá nhân, ngược lại, Người coi đó là hai mặt của một giá trị thống nhất. Khi khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm đi trước thời đại, vượt lên trên nhiều mô hình cách mạng vốn chỉ dừng lại ở thay đổi thể chế mà không đặt con người làm trung tâm.Trong quan niệm của Người, độc lập không thể tách rời với năng lực làm chủ của mỗi cá nhân – từ sinh kế, tri thức, đến quyền phát triển toàn diện. Tự do không phải là khái niệm trừu tượng mà rất cụ thể: “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Sự cụ thể ấy chính là điểm khác biệt giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều lý thuyết mang tính hình thức. Người không chỉ nói về tự do, mà kiến tạo các điều kiện thực chất để nhân dân được sống tự do.Ngọn cờ tư tưởng trong suốt chiều dài cách mạngTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, kim chỉ nam xuyên suốt chiều dài cách mạng Việt Nam, là động lực và định hướng, dẫn dắt dân tộc ta từ công cuộc giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc đến thời kỳ Đổi mới, hội nhập và khát vọng vươn mình của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.Dưới ánh sáng tư tưởng ấy, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, giành độc lập từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật; đã chiến đấu kiên cường suốt ba thập niên để thống nhất đất nước; và tiếp tục vững bước trong công cuộc Đổi mới từ năm 1986 đến nay.Tư tưởng đó không chỉ là động lực tinh thần, mà còn là điểm tựa để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị thống nhất và bền vững, làm nên thắng lợi của mô hình “dân làm gốc”, “lấy dân làm trung tâm”. Đó là nguồn sức mạnh để lớp lớp thanh niên ra trận, để các bà mẹ tiễn con đi chiến đấu mà không đòi hỏi điều kiện nào khác ngoài một khát vọng giản dị: Đất nước được độc lập, nhân dân được tự do.Trong thế kỷ 21, độc lập và tự do không còn chỉ mang nghĩa chống ngoại xâm hay giữ chủ quyền lãnh thổ. Đó còn là năng lực tự chủ trong phát triển, là quyền hoạch định con đường tương lai của quốc gia trên nền tảng văn hóa, kinh tế, khoa học – công nghệ. Một đất nước độc lập hôm nay là quốc gia có khả năng định hình thể chế của riêng mình, thiết kế chính sách theo lợi ích dân tộc mà không bị lệ thuộc, đồng thời chủ động hội nhập mà không đánh mất bản sắc.Tự do trong thời đại hiện nay còn gắn liền với tự do tư duy, tự do sáng tạo, tự do khởi nghiệp, tự do học thuật, tự do tiếp cận cơ hội phát triển…, chính là sự tiếp nối và phát triển từ tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” của Hồ Chí Minh. 80 năm sau Cách mạng Tháng Tám, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” vẫn soi đường cho đất nước trên hành trình Đổi mới và hội nhập, hội nhập và phát triển trong kỷ nguyên mới.Không phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí thư Tô Lâm gần đây nhấn mạnh rằng: Phải đột phá thể chế, pháp luật, khơi thông những điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực để đất nước vươn mình. Điều đó cho thấy, tư tưởng độc lập – tự do không chỉ là một lý tưởng tinh thần, mà cần được cụ thể hóa trong khuôn khổ pháp lý, thể chế và chính sách. Cải cách thể chế không đơn thuần là điều chỉnh hành chính, mà là một cuộc giải phóng toàn diện mọi nguồn lực xã hội, tạo điều kiện để mỗi người dân trở thành chủ thể phát triển – đó chính là ý nghĩa sâu xa của tự do trong một nhà nước pháp quyền hiện đại.Di sản trường tồn mãi mãiTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh là di sản quý báu, là nền tảng tư tưởng – lý luận của Đảng và dân tộc ta. Đó là sự kết tinh của lương tri nhân loại và bản lĩnh dân tộc Việt Nam, là ánh sáng đã soi đường cho cách mạng Việt Nam trong cả thời chiến và thời bình. Tư tưởng ấy không chỉ dừng lại ở các bản văn lịch sử, mà đang sống động trong từng chính sách, từng hành động, từng quyết sách của đất nước.Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 không chỉ là dịp để ôn lại quá khứ hào hùng, mà còn là cơ hội để soi chiếu hiện tại và định hình tương lai từ những giá trị trường tồn. Một quốc gia hiện đại không thể tách rời tinh thần độc lập dân tộc, cũng như một xã hội văn minh không thể tồn tại nếu thiếu tự do và quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, tiếp nối và phát triển tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong điều kiện mới chính là con đường duy nhất để dân tộc Việt Nam phát triển bền vững và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.Theo VOVLink: https://vov.vn/chinh-tri/khong-co-gi-quy-hon-doc-lap-tu-do-nguon-dong-luc-de-dat-nuoc-vuon-minh-post1225348.vov