Trang trọng lễ giỗ 600 năm Hoàng Hậu Phạm Thị Ngọc Trần

Lễ giỗ lần thứ 600 năm Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần (Nghi Xuân – Hà Tĩnh) là dịp để tri ân, biết ơn sâu sắc bậc tiền nhân đã có công trong việc chống giặc ngoại xâm.

Chiều 20/4 (tức ngày 23/3 âm lịch), huyện Nghi Xuân trang trọng tổ chức lễ giỗ 600 năm của Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần tại di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh đền Thánh Mẫu (xã Xuân Lam).

Trước khi bước vào lễ giỗ Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần, các đại biểu cùng Nhân dân và du khách được thưởng thức chương trình giao lưu văn nghệ đặc sắc với các di sản văn hoá phi vật thể đến từ các tỉnh Nam Định, Bắc Ninh và Hà Tĩnh.

bqbht_br_1.jpg

Các nghệ nhân, nghệ sỹ, ca nương giao lưu văn nghệ với những làn điệu ca trù, quan họ, lẩy Kiều, xẩm Kiều, hát chèo và dân ca ví giặm.

Đền Thánh Mẫu là ngôi đền thiêng liêng tọa lạc dưới chân núi Na, xã Xuân Lam, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đây thờ Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần (vợ của Lê Lợi - thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn). Phần mộ (hậu am) có từ năm Ất Tỵ (1425), phần đền xây dựng đầy đủ vào đời vua Lê Thánh Tông (con trai của Phạm Thị Ngọc Trần và Lê Lợi).

 

Bà sinh ra trong một gia đình ở vùng Quần Lai, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hóa. Bà là một liệt nữ trung hiếu vẹn toàn, tận tuỵ cùng Bình Định Vương Lê Lợi đánh thắng giặc Minh thống nhất giang sơn đất nước.

bqbht_br_12.jpg

Lễ rước Thánh Mẫu

Theo sử sách, những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, bà đã cùng Bình Định Vương Lê Lợi và các tướng sỹ xông pha trận mạc. Ngày 24 tháng 3 năm 1425, khi đánh thành Trào Khẩu - Nghệ An, Hoàng hậu Ngọc Trần đã tự hiến mình cho thuỷ thần trên dòng Sông Lam để thần phù hộ cho nghĩa quân thắng giặc. Sau khi hiến thân, thi thể của bà đã được quản tại Núi Na, làng Lộc Điền, tổng Tam Đăng (nay là thôn 5, xã Xuân Lam, huyện Nghi Xuân).

Năm 1428, sau khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, để đền đáp công ơn của bà, Vua Lê Thái Tổ đã lập con trai của bà là Lê Nguyên Long lên kế vị, lấy hiệu là Lê Thái Tông. Sau đó Vua Lê Thái Tông truy tôn mẹ làm Cung từ Quốc Thái Mẫu, Cung từ Quang phục Quốc Thái Mẫu; năm 1437 bà được truy tôn làm Hoàng Thái Hậu.

 

bqbht_br_7.jpg

Ban tế lễ tiến hành các nghi lễ truyền thống.

Trải qua hàng trăm năm, đền thờ được chính quyền và Nhân dân nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Năm 2005, phần mộ và đền thờ Hoàng hậu Ngọc Trần được UBND tỉnh Hà Tĩnh công nhận Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh.

Hằng năm, cứ vào ngày 23 đến 24 tháng 3 âm lịch, huyện Nghi Xuân trang trọng tổ chức lễ giỗ Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần theo nghi thức cổ truyền của dân tộc nhằm tưởng niệm bà là người đã có công lớn vì dân, vì nước; cầu mong cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, quốc thái dân an.

bqbht_br_6.jpg

Lãnh đạo huyện Nghi Xuân dâng hương tỏ lòng biết ơn trước công lao của Hoàng hậu Ngọc Trần.
 

Đây là dịp để tri ân, giáo dục truyền thống yêu nước, biết ơn sâu sắc các bậc tiền nhân đã có công trong việc chống giặc ngoại xâm; khơi dậy đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, hướng về cội nguồn; góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá...

Xem nhiều nhất

Không có gì quý hơn độc lập, tự do: Nguồn động lực để đất nước vươn mình

Thông tin tuyên truyền 1 ngày trước

"Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vang lên giữa những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không chỉ là khẩu hiệu chiến đấu, mà là một định đề chính trị, một hệ giá trị tư tưởng và một bản lĩnh quốc gia. Trong bối cảnh đất nước tiếp tục chuyển mình mạnh mẽ trước làn sóng toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh địa chính trị – địa kinh tế phức tạp, tư tưởng này tiếp tục là nền tảng để định hình đường lối phát triển của Việt Nam hiện đại. Tư tưởng khởi nguồn từ thực tiễn lịch sử và bản lĩnh dân tộcKhông đơn thuần là một khẩu hiệu, câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là sự kết tinh của lịch sử dân tộc và tư duy cách mạng Hồ Chí Minh – một tư tưởng được hun đúc từ thực tiễn đau thương, khát vọng giải phóng và tinh thần làm chủ vận mệnh của nhân dân Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm bị đô hộ và chia cắt, dân tộc ta đã khẳng định một chân lý: Quyền được làm chủ vận mệnh dân tộc và quyền sống có phẩm giá là điều thiêng liêng nhất. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh tư liệuChủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã trải qua 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước chính là hiện thân tiêu biểu của tư tưởng đó. Từ bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles năm 1919, cho đến bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945, rồi đến lời hiệu triệu kháng chiến chống Mỹ năm 1966, có thể thấy rằng tư tưởng về độc lập – tự do là trục xuyên suốt, nhất quán và ngày càng được cụ thể hóa theo từng thời kỳ. Chính sự gắn bó giữa lý tưởng và thực tiễn ấy đã tạo nên sức mạnh thuyết phục sâu rộng của tư tưởng Hồ Chí Minh – không chỉ với nhân dân Việt Nam, mà còn với bạn bè quốc tế, những ai yêu chuộng hòa bình và công lý.Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa đơn thuần, mà còn thể hiện một tầm nhìn nhân văn, tiến bộ và toàn diện. Hồ Chí Minh không đối lập giữa độc lập dân tộc và tự do cá nhân, ngược lại, Người coi đó là hai mặt của một giá trị thống nhất. Khi khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm đi trước thời đại, vượt lên trên nhiều mô hình cách mạng vốn chỉ dừng lại ở thay đổi thể chế mà không đặt con người làm trung tâm.Trong quan niệm của Người, độc lập không thể tách rời với năng lực làm chủ của mỗi cá nhân – từ sinh kế, tri thức, đến quyền phát triển toàn diện. Tự do không phải là khái niệm trừu tượng mà rất cụ thể: “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Sự cụ thể ấy chính là điểm khác biệt giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều lý thuyết mang tính hình thức. Người không chỉ nói về tự do, mà kiến tạo các điều kiện thực chất để nhân dân được sống tự do.Ngọn cờ tư tưởng trong suốt chiều dài cách mạngTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, kim chỉ nam xuyên suốt chiều dài cách mạng Việt Nam, là động lực và định hướng, dẫn dắt dân tộc ta từ công cuộc giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc đến thời kỳ Đổi mới, hội nhập và khát vọng vươn mình của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.Dưới ánh sáng tư tưởng ấy, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, giành độc lập từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật; đã chiến đấu kiên cường suốt ba thập niên để thống nhất đất nước; và tiếp tục vững bước trong công cuộc Đổi mới từ năm 1986 đến nay.Tư tưởng đó không chỉ là động lực tinh thần, mà còn là điểm tựa để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị thống nhất và bền vững, làm nên thắng lợi của mô hình “dân làm gốc”, “lấy dân làm trung tâm”. Đó là nguồn sức mạnh để lớp lớp thanh niên ra trận, để các bà mẹ tiễn con đi chiến đấu mà không đòi hỏi điều kiện nào khác ngoài một khát vọng giản dị: Đất nước được độc lập, nhân dân được tự do.Trong thế kỷ 21, độc lập và tự do không còn chỉ mang nghĩa chống ngoại xâm hay giữ chủ quyền lãnh thổ. Đó còn là năng lực tự chủ trong phát triển, là quyền hoạch định con đường tương lai của quốc gia trên nền tảng văn hóa, kinh tế, khoa học – công nghệ. Một đất nước độc lập hôm nay là quốc gia có khả năng định hình thể chế của riêng mình, thiết kế chính sách theo lợi ích dân tộc mà không bị lệ thuộc, đồng thời chủ động hội nhập mà không đánh mất bản sắc.Tự do trong thời đại hiện nay còn gắn liền với tự do tư duy, tự do sáng tạo, tự do khởi nghiệp, tự do học thuật, tự do tiếp cận cơ hội phát triển…, chính là sự tiếp nối và phát triển từ tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” của Hồ Chí Minh. 80 năm sau Cách mạng Tháng Tám, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” vẫn soi đường cho đất nước trên hành trình Đổi mới và hội nhập, hội nhập và phát triển trong kỷ nguyên mới.Không phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí thư Tô Lâm gần đây nhấn mạnh rằng: Phải đột phá thể chế, pháp luật, khơi thông những điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực để đất nước vươn mình. Điều đó cho thấy, tư tưởng độc lập – tự do không chỉ là một lý tưởng tinh thần, mà cần được cụ thể hóa trong khuôn khổ pháp lý, thể chế và chính sách. Cải cách thể chế không đơn thuần là điều chỉnh hành chính, mà là một cuộc giải phóng toàn diện mọi nguồn lực xã hội, tạo điều kiện để mỗi người dân trở thành chủ thể phát triển – đó chính là ý nghĩa sâu xa của tự do trong một nhà nước pháp quyền hiện đại.Di sản trường tồn mãi mãiTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh là di sản quý báu, là nền tảng tư tưởng – lý luận của Đảng và dân tộc ta. Đó là sự kết tinh của lương tri nhân loại và bản lĩnh dân tộc Việt Nam, là ánh sáng đã soi đường cho cách mạng Việt Nam trong cả thời chiến và thời bình. Tư tưởng ấy không chỉ dừng lại ở các bản văn lịch sử, mà đang sống động trong từng chính sách, từng hành động, từng quyết sách của đất nước.Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 không chỉ là dịp để ôn lại quá khứ hào hùng, mà còn là cơ hội để soi chiếu hiện tại và định hình tương lai từ những giá trị trường tồn. Một quốc gia hiện đại không thể tách rời tinh thần độc lập dân tộc, cũng như một xã hội văn minh không thể tồn tại nếu thiếu tự do và quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, tiếp nối và phát triển tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong điều kiện mới chính là con đường duy nhất để dân tộc Việt Nam phát triển bền vững và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.Theo VOVLink: https://vov.vn/chinh-tri/khong-co-gi-quy-hon-doc-lap-tu-do-nguon-dong-luc-de-dat-nuoc-vuon-minh-post1225348.vov